Phật pháp ứng dụng Thí chủ nên cảm ơn

Khi Seisetsu làm thiền sư của phái Engaku ở Kamakura, ngài muốn có những phòng ốc lớn hơn trong thiền viện, vì kẽ theo học quá đông. Umezu Seibei, một thương gia ở Edo, quyết định cúng tặng năm trăm lượng vàng (ryo) cho việc xây xất. Y mang vàng đến cho thiền sư.

Seisetsu nói: "Thôi được, ta sẽ nhận."

Umezu trao cho Seisetsu một bao vàng, nhưng không mấy hài lòng với thái độ của vị thiền sư. Người ta có thể sống cả năm với ba lượng, đằng này ông thương gia không được một tiếng cám ơn với năm trăm lượng.

"Trong bao này có năm trăm lượng vàng," Umezu ám chỉ.

"Ông đã bảo với tôi như thế rồi," Seisetsu trả lời.

"Ngay cả tôi là một thương gia giàu có, năm trăm lượng cũng là một món tiền lớn," Umezu nói.

"Ông muốn tôi cám ơn vì nó?" Seisetsu hỏi.

"Nên thế," Umezu trả lời.

"Tại sao lại thế?" Seisetsu thắc mắc. "Thí chủ nên cám ơn mới phải chứ."

Xem thêm:

Thí chủ nên cảm ơn

Phật pháp ứng dụng Thí chủ nên cảm ơn

Khi Seisetsu làm thiền sư của phái Engaku ở Kamakura, ngài muốn có những phòng ốc lớn hơn trong thiền viện, vì kẽ theo học quá đông. Umezu Seibei, một thương gia ở Edo, quyết định cúng tặng năm trăm lượng vàng (ryo) cho việc xây xất. Y mang vàng đến cho thiền sư.

Seisetsu nói: "Thôi được, ta sẽ nhận."

Umezu trao cho Seisetsu một bao vàng, nhưng không mấy hài lòng với thái độ của vị thiền sư. Người ta có thể sống cả năm với ba lượng, đằng này ông thương gia không được một tiếng cám ơn với năm trăm lượng.

"Trong bao này có năm trăm lượng vàng," Umezu ám chỉ.

"Ông đã bảo với tôi như thế rồi," Seisetsu trả lời.

"Ngay cả tôi là một thương gia giàu có, năm trăm lượng cũng là một món tiền lớn," Umezu nói.

"Ông muốn tôi cám ơn vì nó?" Seisetsu hỏi.

"Nên thế," Umezu trả lời.

"Tại sao lại thế?" Seisetsu thắc mắc. "Thí chủ nên cám ơn mới phải chứ."

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng Coi chừng khẩu nghiệp

Khẩu nghiệp khó tránh ở đời
Xin nguyện ăn nói những lời từ tâm 


Tránh lời dối trá gian thâm
Tránh lời chia rẽ gây mầm hại nhau 
Tránh lời phách lối ba hoa
Tránh lời thô lỗ khẩu xà mọi nơi! 

Nói cho đúng lúc đúng thời
Nói theo sự thật một lời không sai 
Nói cho lợi ích lâu dài
Nói lời tao nhã để hài lòng nhau; 
Nói ra phải nghĩ trước sau

Tránh lời phê phán khổ đau cho người. 

Nói lời phát tự tâm từ
Nghe sao thanh thản tựa như chuông đồng 
Đêm ngày niệm Phật cầu mong:
Xin giữ im lặng khi lòng sân si!


Xem thêm:

Coi chừng khẩu nghiệp

Phật pháp ứng dụng Coi chừng khẩu nghiệp

Khẩu nghiệp khó tránh ở đời
Xin nguyện ăn nói những lời từ tâm 


Tránh lời dối trá gian thâm
Tránh lời chia rẽ gây mầm hại nhau 
Tránh lời phách lối ba hoa
Tránh lời thô lỗ khẩu xà mọi nơi! 

Nói cho đúng lúc đúng thời
Nói theo sự thật một lời không sai 
Nói cho lợi ích lâu dài
Nói lời tao nhã để hài lòng nhau; 
Nói ra phải nghĩ trước sau

Tránh lời phê phán khổ đau cho người. 

Nói lời phát tự tâm từ
Nghe sao thanh thản tựa như chuông đồng 
Đêm ngày niệm Phật cầu mong:
Xin giữ im lặng khi lòng sân si!


Xem thêm:
Đọc thêm..
Ngày Tết theo truyền thống dân Việt là dịp sum họp gia đình, họ hàng. Dù đi đâu hay có bận gì thì tới ngày Tết con cháu trong nhà cũng dành vài ngày để quy tụ về nhà ông bà, cha mẹ, nhà từ đường cùng nhau ăn Tết, chúc xuân, thăm hỏi và hàn huyên chuyện trò.

Thôi thì mình cũng “trước sao sau dậy,” theo tục lệ mấy ngày Tết cùng nhau đón xuân, ăn mứt, uống trà và mạn đàm chuyện đời, chuyện đạo cho vui! Người viết đã pha bình trà rồi, lại còn có mứt nữa. Bây giờ mình bắt đầu câu chuyện đầu năm đi nha.

Theo âm lịch, năm nay là năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà làm được một việc lợi lạc mà những con khác trong mười hai con giáp không làm được là đánh thức nhân gian bằng tiếng gáy lúc gần sáng. Ở miền quê Việt Nam ngày xưa, mà có lẽ ngày nay cũng thế, khi mà người dân quê ít ai canh đồng hồ báo thức để dậy sớm đi cày cấy, đi làm lụng, đi buôn bán tảo tần thì tiếng gà gáy sáng chính là đồng hồ báo thức chính xác và hữu ích nhất.



Phật pháp ứng dụng Đón xuân, uống trà mạn đàm chuyện đời chuyện đạo

Trong lúc mọi người đang ngủ say thì tiếng gà gáy thức tỉnh họ dậy, kéo người ta ra khỏi mộng mị của cuộc đời để trở về với thực tại cuộc sống. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:


“Gió đưa cành trúc là đà

Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương.”

Người  mình  xem  tiếng  gà  gáy  báo  thức sang canh như tiếng chuông Chùa Linh Mụ thức tỉnh lúc gần sáng. Như vậy, con gà ngoài việc cống hiến trứng và thịt cho con người ăn còn giúp người ta tỉnh giấc mộng đời. Hữu ích lắm chứ!

Xin nói thêm về con gà một chút để biết cho vui. Theo tự điển bách khoa mở Wikipedia, thì con gà là loài gia súc có mặt sớm nhất tại Đông Nam Á và tại Ai Cập gà được biết tới rất sớm vào khoảng 15 thế kỷ trước công nguyên. Vào năm 2011, dân số gà nhiều hơn gấp 2 lần dân số loài người, với 19 tỉ con gà sống trên trái đất.

Nhưng, nói đến tục lệ đón xuân của người Việt thì người viết chịu nhất là chuyện làm mới mọi thứ từ tâm đến thân, từ trong nhà ra ngoài đường, đâu đâu cũng mới, cũng đẹp. Để đón xuân, người Việt mình chuẩn bị nhiều thứ, sơn sửa, quét dọn, lau chùi, trang hoàng nhà cửa từ trong ra ngoài. 


Lại còn sằm sửa đồ đạc, mua hoa quả bánh trái, rim mứt để cúng Phật, cúng ông bà trong ba ngày Tết. Và đối với bọn con nít thì háo hức se sua quần áo mới để mặc đi chơi Tết. Đặc biệt, trong ngày Mùng Một Tết thì tục lệ nước mình rất kỹ lưỡng, rất tinh tế, từ việc giữ gìn lời ăn tiếng nói đến việc đi chùa lễ Phật trong ba ngày Tết để thân tâm đều trong sạch mà chiêu cảm phước lạc cho cả năm.

Lúc nhỏ thì không hiểu, nhưng khi lớn lên, học được Phật Pháp thì người viết nhận thức tục lệ sửa soạn và làm mới thân tâm trong ngày Tết là điều rất hay, rất hữu ích. Qua đó, ít nhất, một năm người mình cũng có một cơ hội để tu sửa thân tâm, nhất là tu sửa cái tâm mình để sao cho không nghĩ, không nói và không làm điều gì bất lợi cho mình và người. 


Đó chính là thực hành theo lời Phật dạy là chuyển hóa chánh báo (thân tâm) và y báo (hoàn cảnh sống chung quanh, gia đình và xã hội) bằng cách chuyển hóa ba nghiệp (tức hành tác của thân, miệng và ý) theo điều thiện. Đó cũng chính là làm đúng theo đạo lý nhân quả, tạo nhân lành để có quả lành. 

Nếu chỉ biết cầu mong điều tốt đẹp mà không làm gì để tạo nhân lành thì không thể có kết quả lành đến với mình. Khoa học và thực tế lắm chứ, không mê tín dị đoan chút nào. Nếu mỗi ngày cũng làm mới thân tâm như ngày Tết thì chắc chắn sẽ có nhiều kết quả lợi lạc hơn rất nhiều.

Ở Quận Cam của Tiểu Bang California, Hoa Kỳ, nơi có đông đảo người Việt định cư nhất tại hải ngoại, vào dịp cuối năm âm lịch phố xá cũng tưng bừng vào những ngày mua sắm đổ Tết. Ở đây không thiếu thứ gì, từ hoa quả bánh trái, rim mứt, và những món ăn truyền thống dân tộc. Dường như ở đây, những ngày cận Tết thì có không khí Tết hơn là chính mấy ngày Tết.

Người viết mấy năm nay cứ vào đêm Giao Thừa là đến các chùa tại Little Saigon để làm tin, làm phóng sự cho báo. Nhộn nhịp, vui vẻ và có không khí Tết nhất là đêm Giao Thừa tại các chùa. Chùa nào cũng đông người đi lễ Phật, đi coi văn nghệ và đốt pháo. Vì an ninh, các chính quyền thành phố chỉ cho đốt pháo tại một số chùa có xin phép, nên rất đông người, nhất là giới trẻ là những người ghiền đốt pháo Tết, tập trung về các chùa có đốt pháo để “ăn ké.” 


Có chùa vào giờ Giao Thừa từ trong chánh điện ra tới ngoài đường người đi không có chỗ chen chân. Đúng là đông như ngày hội Tết! Tất nhiên hễ có đông người tụ hội thì không sao tránh khỏi những điều phức tạp. Có chùa than phiền về tình trạng người đi lễ đầu năm bứt bẻ cây cảnh để làm lộc đầu năm khiến cho cây kiểng trong chùa xác xơ tan nát, nên các chùa đã chuẩn bị thật nhiều trái cây như cam quýt hoặc những cành mai, hoa đủ thứ và cả bao lì xì để tặng người đi lễ chùa làm lộc mang về đầu năm.

Ấy vậy mà sao có người đòi bỏ đi tục lệ đón xuân ý nghĩa và cao đẹp này? Thật là mười phần không nên. Nếu sợ tốn kém, phung phí thì chỉ nên giảm bớt ngày nghỉ lễ Tết không để kéo dài quá lâu làm hãng xưởng, công sở bị thiệt hại và ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước thôi. Nhưng đó là chuyện ở trong nước, còn ở hải ngoại thì ngày Tết Việt Nam không ảnh hưởng tới công sở Mỹ, có chăng là một số cơ sở kinh doanh của người Việt, mà cũng chỉ cho nghỉ vài bữa chứ không lâu lắm.

Năm mới, ai cũng mong điều tốt đẹp sẽ đến, nhất là trong bối cảnh nhiều bất an của thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Truyền thông ngày nào cũng tràn ngập những tin tức về Nhà Nước Hồi Giáo (IS) và khủng bố al-Qaeda mở mặt trận quy mô ở Syria, Iraq, vừa rình rập từng cơ hội để nổ bom, bắn giết nhiều người trên khắp thế giới từ Âu Châu sang Mỹ Châu. 


Hàng triệu di dân tại Trung Đông và Bắc Phi tràn qua Châu Âu gây khủng hoảng an ninh, kinh tế, xã hội chưa từng có và tạo dây chuyền bất ổn đến các nước khác trên thế giới. Chưa hết, còn chủ nghĩa dân tộc tả phái, hữu phái cũng đang vùng dậy, qua hình ảnh của một Tổng Thống Nga Vladimir Putin, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng Thống Philippines Rodri-go Duterte, và mới đây Tổng Thống Mỹ Donald Trump. Thêm vào đó là các chủ trương bảo hộ mậu dịch về kinh tế góp phần tạo mối de dọa đến các thành quả có được của toàn cầu hóa trong mấy chục năm qua. 

Trật tự thế giới đang bị những nhà chủ nghĩa dân túy đó sắp xếp lại theo chủ thuyết riêng của họ mà chẳng nghĩ gì tới sự an nguy của toàn nhân loại. Thực trạng của một đất nước Syria tan nát, một Châu Âu đầy bất trắc, một Trung Mỹ chao đảo, một Biển Đông của Thái Bình Dương dậy sóng là các hệ quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Và chắc chắn sẽ còn nhiều bất an nữa sẽ diễn ra trên hành tinh này trong những năm tháng tới!

Không chỉ có chừng đó bất an, thế giới này và đặc biệt ngay trên quê hương Việt Nam tình trạng biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi sinh đã và đang đem tới nhiều thiệt hại to lớn về nhiều mặt, từ kinh tế, xã hội tới an ninh, sức khỏe và đời sống của con người. Thảm họa mực nước biển dâng cao xâm thực làm thiệt hại việc canh tác tại đồng bằng lưu vực Sông Cửu Long; vụ thải chất độc xuống biển của công ty Formosa tại Hà Tĩnh làm cá chết hàng loạt, gây ô nhiễm vùng nước biển, khiến cho hàng triệu người dân nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam lâm vào tình cảnh điêu đứng khổ sở!

Chắc có người sẽ nhíu mày cho rằng bộ hết chuyện nói rồi chăng, sao ngày Tết ngày Nhứt mà lại đem ba cái chuyện không vui này ra nói!

Thưa, trên đời, đã có chuyện vui thì ắt có chuyện không vui. Nhất là người con Phật thì ý thức rõ điều đó hơn ai hết. Và nếu đã thích vui thì cũng phải chấp nhận cái không vui, vì đó là hai mặt của cuộc đời luôn luôn cùng hiện hữu.


Không ai có thể chỉ muốn có điều vui không thôi mà không nhận điều không vui được. Dù mình có phủ nhận, có từ chối, có trốn chạy cái khổ thì nó vẫn sờ sờ ra đó, ngay trong nhà mình, trong cuộc sống mình, trong thân tâm mình. Trong thế giới tương quan duyên khởi này có-không, sinh- diệt, khổ -vui cùng nương nhau mà tồn tại, khi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không.” 


Bởi thế chúng ta mới đi theo đức Phật, mới đến với đạo Phật để học và tu sao cho đạt tới mở mang trí tuệ để nhìn rõ bản chất các pháp và biết cách trực diện để chuyển hóa chứ không trốn chạy nữa. Khi làm được vậy thì mới mong giải thoát khổ đau.

Trong mấy ngày Tết tạm được nhàn hạ một chút, người con Phật cũng nên suy nghiệm là chúng ta có thể làm gì để góp phần giải quyết các nan đề của nhân loại nói chung và ngay chính cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng? Từ vấn đề đó dẫn chúng ta đến hai vấn đề khác là, một, có phải người Phật tử là nên tránh xa những chuyện đời như thế để chỉ lo tu hành thôi; và hai, trong Phật Giáo có giải pháp cho những vấn đề như thế?

Nãy giờ nói chuyện cũng hơi lâu, bình trà đã pha tới nước thứ ba rồi. Nước trà đã lạt, hết ngon. Xin cho phép vài phút để người viết pha lại bình trà khác uống cho đậm đà, nha quý vị. À, nói chuyện say mê đến quên thưởng thức món mứt gừng vừa cay, vừa ngon miệng rồi. Trong lúc chờ pha bình trà khác, xin mời chư vị ăn mứt để biết hương vị Tết Đinh Dậu mặn mà cỡ nào!

Bây giờ chúng ta lại vào chuyện tiếp. Được rồi chứ!
Thật ra, sự tồn tại và phát triển của Phật Giáo trên thế giới hơn hai ngàn rưởi năm và tại Việt Nam hơn hai ngàn năm đã là câu trả lời thật rõ ràng cho chúng ta đối với những vấn đề vừa được nêu ra. 


Tại sao? Bởi vì, nếu Phật Giáo không có khả năng, không đóng góp được gì cho nhân loại và cho đất nước Việt Nam thì Phật Giáo đã không được nhân loại và dân tộc Việt đón nhận một cách trân quý và nhiệt thành như chúng ta đã và đang thấy suốt chiều dài lịch sử trên hai mươi lăm thế kỷ qua.

Trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, có mặt vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ 2 sau tây lịch tại Giao Châu, tác giả Mâu Tử—một tri thức Tàu tị nạn tại Giao Châu và rồi chống lại quan điểm cho rằng nước Trung Hoa là trung tâm của trời đất—khi bàn về đạo hiếu trong Phật Giáo có nói rằng đạo lý đó không phải là lý thuyết suông mà là “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì cứu dân độ thế, khi ngồi một mình thì tu thân.”

Đúng vậy, trên thực tế Phật Pháp không chỉ là lương dược trị bệnh thân tâm cho cá nhân con người mà còn là giải pháp hữu hiệu để trị quốc an dân. Điều này đã được lịch sử chứng thực qua việc đem giáo pháp Phật để bình trị thiên hạ một cách thành công của Vua A Dục ở Ấn Độ, Vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa, các vua triều đại nhà Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam, v.v… Gần đây nhất là cuối năm 1999, Liên Hiệp Quốc cũng đã ra Nghị Quyết lấy giáo pháp từ bi và hòa bình của đức Phật để xoa dịu và hóa giải những bất an, bạo động và khủng hoảng trên thế giới. Cũng nhân Nghị Quyết đó, Liên Hiệp Quốc mới đặt ra việc tổ chức Đại Lễ Vesak, kỷ niệm ngày Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn của đức Phật hàng năm.

Hãy nói chuyện ở nước mình cho dễ thấy. Rằng, nếu mọi người từ dân đến quan đều thực hành lời Phật dạy một cách hữu hiệu, giữ gìn Năm Giới, bỏ bớt tham sân si, thực hiện lòng từ bi thương yêu lẫn nhau [từ bi], biết nghĩ cho người khác [lợi tha], vận dụng được phần nào tiềm lực trí tuệ ngay trong chính mỗi người [trí tuệ], thì sẽ mang lại biết bao lợi lạc cho mình, cho người, cho đất nước và dân tộc. 


Đừng nói đâu xa chỉ xin nói một chuyện là mỗi người dân, mỗi ông quan có thể bỏ bớt lòng tham chiếm hữu của cải của người khác, không trộm cắp của người, của công, giữ lòng thanh bạch thì đã có thể tránh được đại nạn tham nhũng, bóc lộc và hà hiếp dân lành. Ngay như chuyện Fomorsa còn mới tinh trước mắt, suy cho cùng căn nguyên sâu xa nhất cũng là từ lòng tham của con người mà ra, phải không? 

Còn gì nữa chứ! Thì do lòng tham mà các quan có trách nhiệm đã mắt nhắm mắt mở dễ dãi thông qua kế hoạch để nhận hầu bao, do tham lợi mà mờ mất lương tri không nghĩ tới hậu quả tai hại cho người khác, do tham lam mà quên mất việc làm của mình sẽ dẫn tới thiệt hại lớn lao và lâu dài cho môi trường sống của muôn vạn người dân, v.v…

Người viết có cảm nghĩ dường như người con Phật ngày càng có khuynh hướng sống và cho rằng người tu Phật thì không nên can dự vào chuyện đời, nhất là chuyện “chính trị chính em,” thì phải!

Xin nhớ rằng, Phật Giáo sở dĩ được các dân tộc bản đ đón nhận một cách hoan hỷ và xem như là một bộ phận gắn bó của dân tộc đó, như ở nước ta, chẳng hạn, hay có câu nói “đạo pháp và dân tộc như nước với sữa,” là vì Phật Giáo, ngoài việc tự tu tự độ, còn làm được rất nhiều việc lợi lạc cho con người và xã hội, kể cả chuyện trị quốc an dân.

Nhân chuyện này, chúng ta cũng nên chiêm nghiệm lại vấn đề rằng là, tại sao hậu thế ngày nay khi nhắc đến công hạnh cống hiến cho quốc gia xã tắc của các vị thiền sư Việt Nam thời Đinh, Lê, Lý, Trần như Thiền Sư Khuông Việt, Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông, v.v… thì không tiếc lời tán dương, ca ngợi, nhưng lại chê trách việc dấn thân hộ quốc an dân của người con Phật thời nay? Chẳng lẽ những việc quý ngài thời đó làm lại không liên quan đến chuyện chính sự hay sao!

Bình tâm mà xét, chúng ta có thể thấy rằng, ngoài việc đóng vai trò giữ vững ngọn đèn Chánh Pháp, nỗ lực hoằng pháp lợi sinh, người con Phật, cũng cần đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước và xã hội ở nhiều bình diện khác, gồm cả chính trị. Ở đây, chư vị xuất gia vì đời sống tu hành xuất thế không tiện tham gia vào chính sự thì có thể góp phần vào công cuộc giáo dục quần chúng, giáo dục tuổi trẻ, gây ý thức, truyền trao kiến thức để những người Phật tử tại gia này trực tiếp đóng góp vào việc trị quốc an dân. 


Cũng xin nhắc lại rằng, ngày xưa tại nước ta khi chưa có hệ thống giáo dục nhà nước để đào tạo nhân tài ra giúp nước, thì chùa chiền là nơi đảm nhận vai trò giáo dục quốc dân, mà bằng chứng lịch sử rõ nhất là triều đình Nhà Đinh đã cử Thiền Sư Đỗ Pháp Thuận giả làm gã chèo đò để tiếp đón sứ giả Nhà Tống là nhà thơ Lý Giác đi sứ sang Việt Nam; hoặc Vua Lý Công Uẩn được Thiền Sư Vạn Hạnh nuôi dạy trong chùa rồi cho ra làm quan tới chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ trong triều đình Nhà Lê nên mới có cơ hội làm cách mạng để lập ra Nhà Lý.

Tất nhiên, đó không phải là chuyện dễ thực hiện. Xin nêu ra hai cái khó. Trước hết, Phật Giáo Việt Nam hiện tại trong nước vẫn chưa có các trường trung tiểu và đại học được nhà nước công nhận để thực hiện việc giáo dục tuổi trẻ hữu hiệu. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điều có thể làm được như biến nhà chùa thành cơ sở giáo dục nhiều mặt, có thể là nơi dạy kèm sau giờ học, là nơi giúp dạy nghề nghiệp, dạy ngoại ngữ, dạy sử dụng máy điện toán, v.v… 


Chùa cũng có thể lập các tủ sách, hay quy mô hơn thì lập thư viện, tùy theo điều kiện cơ sở vật chất, tài chánh và nhân sự của chùa. Lập được thư viện ngay trong chùa là điều lý tưởng vì vừa giúp các em có sách vở tham khảo, học hành, vừa khuyến khích các em nói riêng và quần chúng nói chung tham gia vào công cuộc đọc sách để vực dậy phong trào đọc sách trên cả nước. Đây là công tác có hiệu quả dài hạn, bởi vì đó là cách bồi đắp nền dân trí của quốc dân thực sự. Khi dân trí cao thì đất nước dễ tiến bộ và phát triển.

Cái khó thứ hai là dù người Phật tử tại gia có quy y, có thọ năm giới, có học Phật Pháp, có Thầy bổn sư dạy dỗ, nhưng khi tham gia vào guồng máy chính trị điều hành đất nước thì chưa chắc giữ được đạo tâm và làm được những gì đã học từ trong chùa, bởi vì khi vào đó thì rất dễ bị lợi danh, quyền hành lôi kéo và khó giữ sạch mình. Đây không những là thực tế xã hội mà còn là nan đề của Phật Giáo Việt Nam. Các Phật tử có tâm có tu thì không thích dấn thân vào chính sự, còn các Phật tử xông pha vào chính trường thì thường, chứ không dám nói là hết tất cả, bị “bát phong xuy động,” rồi đánh mất sơ tâm của mình. Đây là thiếu sót của phương thức giáo dục hay là “bản chất nan di” của con người dù là người con Phật?

Nói tới chuyện này, chúng ta cũng cần quan sát hiệu quả của công tác hoằng pháp, hướng dẫn quần chúng Phật tử sao cho công tác Phật sự mang lại thành quả thực sự. Chẳng hạn, trong một khu phố, trong một ngôi làng, hay rộng hơn trên bình diện cả nước nếu chúng ta thường tự hào tỉ lệ Phật tử trong dân số chiếm phần đông nhưng thực tế xã hội ngày càng có nhiều tệ nạn, tệ đoan, tội ác, bất an lan tràn, thì phải xét lại phương thức góp phần xây dựng con người và xã hội như thế có phù hợp không, có hiệu quả không.

Còn nữa, người con Phật làm sao để hình ảnh của đức Phật, của Phật Giáo luôn luôn thân cận, hòa đồng với dân tộc, với đất nước, đừng biến đức Phật thành vị thần thánh chỉ biết ngồi trên cao ban phước giáng họa và cũng đừng biến Phật Giáo thành một tôn giáo xa cách với đồng bào Phật tử. Hai hình ảnh dễ thấy nhất là vị Tăng Sĩ và ngôi Chùa. 


Ở giữa cộng đồng dân chúng nghèo khổ, đói rách, cơ cực không thể có hình ảnh một vị Tăng Sĩ giàu sang quyền quý và một ngôi chùa đồ sộ nguy nga với những mảnh giấy xác lập kỷ lục chùa to, Phật lớn. Những hình ảnh đó chắc chắn không những biến Phật Giáo thành một ốc đảo giữa nhân gian, mà còn làm đau lòng những người con Phật hiểu biết Chánh Pháp!

Thực tế, con người, dù là người con Phật, khi đi vào đời để hành đạo, nhất là hành đạo trong môi trường xã hội phức tạp, đặc biệt là trong lãnh vực chính trị, thì rất dễ bị biến chất, bị tha hóa, bị thế tục hóa. Chính vì vậy, Đại Thừa trang bị cho người thực hành Bồ Tát Đạo thật kỹ lưỡng, thật nghiêm túc từ lý tưởng, phương thức cho đến nội lực từ bi và trí tuệ. Hình ảnh của Thiện Tài Đồng Tử trong Phẩm Nhập Pháp Giới của Kinh Hoa Nghiêm trên cuộc hành trình tầm sư học đạo và thể nghiệm Phật Pháp, cũng như trang bị các kỹ năng của thế gian pháp cho thấy Đại Thừa rất nghiêm cẩn đối với vấn đề đào tạo nhân sự đi vào đời làm việc đạo. 


Để cuối cùng, Đại Thừa giới thiệu mẫu người đã thành tựu con đường tự giác và giác tha là Cư Sĩ Duy Ma Cật, Cư Sĩ Thắng Man Phu Nhân là những người Phật tử có đủ bản lãnh để xông vào cuộc đời làm mọi việc đời việc đạo mà không bị tha hóa. Tất nhiên, những mẫu người như thế thì không dễ tìm thấy nhiều trong suốt dòng lịch sử Phật Giáo thế giới. 

Nhưng mẫu người lý tưởng đó không phải chỉ là cái hình ảnh biểu tượng chỉ để ngắm, để tôn thờ và để mơ ước, mà trên thực tế cũng đã có những người con Phật làm được tại Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… như được nêu ra ở trên.

Nhắc đến Thiện Tài Đồng Tử thì cũng phải nhắc đến những bậc Thầy trác việt của chàng thanh niên Phật tử này, mà hai trong số rất nhiều thân giáo sư của Thiện Tài là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Văn Thù là bậc đại trí tuệ đã chỉ dẫn cho Thiện Tài từ sơ cơ đến cứu cánh. Còn Bồ Tát Di Lặc người đã khai thị cho Thiện Tài về tâm bồ đề. 


Người con Phật hành Bồ Tát Đạo thì trước hết là phải phát khởi tâm bồ đề, là tâm trên cầu thành Phật và dưới thệ nguyện cứu khổ chúng sinh. Muốn thành Phật và cứu chúng sinh đều cần phải tu tập làm sao để xả kỷ, bỏ ngã chấp. Tâm bồ đề chính là tâm vô ngã. Không có tâm bồ đề thì không làm được việc lớn.

Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai luôn luôn nở nụ cười trên môi vì tâm ngài là tâm bồ đề, tâm giác ngộ, tâm giải thoát mọi khổ đau. Chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngài đầu năm để học theo đại nguyện và đại hạnh hưng phát tâm đồ đề của mình để làm cho mình có đủ nghị lực vượt qua mọi khổ não của cuộc đời đầy bất an.

Lo đàm đạo hăng say quá mà quên cả bình trà pha lần thứ hai cũng đã cạn. Thôi thì, xin dừng lại câu chuyện đầu năm ở đây để chúng ta cùng pha trà, ăn mứt và tiếp tục đón xuân Đinh Dậu.

Kính chúc chư vị một năm mới tràn đầy sức khỏe, phước lộc và bình an.


Xem thêm:

Đón xuân, uống trà mạn đàm chuyện đời chuyện đạo

Ngày Tết theo truyền thống dân Việt là dịp sum họp gia đình, họ hàng. Dù đi đâu hay có bận gì thì tới ngày Tết con cháu trong nhà cũng dành vài ngày để quy tụ về nhà ông bà, cha mẹ, nhà từ đường cùng nhau ăn Tết, chúc xuân, thăm hỏi và hàn huyên chuyện trò.

Thôi thì mình cũng “trước sao sau dậy,” theo tục lệ mấy ngày Tết cùng nhau đón xuân, ăn mứt, uống trà và mạn đàm chuyện đời, chuyện đạo cho vui! Người viết đã pha bình trà rồi, lại còn có mứt nữa. Bây giờ mình bắt đầu câu chuyện đầu năm đi nha.

Theo âm lịch, năm nay là năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà làm được một việc lợi lạc mà những con khác trong mười hai con giáp không làm được là đánh thức nhân gian bằng tiếng gáy lúc gần sáng. Ở miền quê Việt Nam ngày xưa, mà có lẽ ngày nay cũng thế, khi mà người dân quê ít ai canh đồng hồ báo thức để dậy sớm đi cày cấy, đi làm lụng, đi buôn bán tảo tần thì tiếng gà gáy sáng chính là đồng hồ báo thức chính xác và hữu ích nhất.



Phật pháp ứng dụng Đón xuân, uống trà mạn đàm chuyện đời chuyện đạo

Trong lúc mọi người đang ngủ say thì tiếng gà gáy thức tỉnh họ dậy, kéo người ta ra khỏi mộng mị của cuộc đời để trở về với thực tại cuộc sống. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:


“Gió đưa cành trúc là đà

Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương.”

Người  mình  xem  tiếng  gà  gáy  báo  thức sang canh như tiếng chuông Chùa Linh Mụ thức tỉnh lúc gần sáng. Như vậy, con gà ngoài việc cống hiến trứng và thịt cho con người ăn còn giúp người ta tỉnh giấc mộng đời. Hữu ích lắm chứ!

Xin nói thêm về con gà một chút để biết cho vui. Theo tự điển bách khoa mở Wikipedia, thì con gà là loài gia súc có mặt sớm nhất tại Đông Nam Á và tại Ai Cập gà được biết tới rất sớm vào khoảng 15 thế kỷ trước công nguyên. Vào năm 2011, dân số gà nhiều hơn gấp 2 lần dân số loài người, với 19 tỉ con gà sống trên trái đất.

Nhưng, nói đến tục lệ đón xuân của người Việt thì người viết chịu nhất là chuyện làm mới mọi thứ từ tâm đến thân, từ trong nhà ra ngoài đường, đâu đâu cũng mới, cũng đẹp. Để đón xuân, người Việt mình chuẩn bị nhiều thứ, sơn sửa, quét dọn, lau chùi, trang hoàng nhà cửa từ trong ra ngoài. 


Lại còn sằm sửa đồ đạc, mua hoa quả bánh trái, rim mứt để cúng Phật, cúng ông bà trong ba ngày Tết. Và đối với bọn con nít thì háo hức se sua quần áo mới để mặc đi chơi Tết. Đặc biệt, trong ngày Mùng Một Tết thì tục lệ nước mình rất kỹ lưỡng, rất tinh tế, từ việc giữ gìn lời ăn tiếng nói đến việc đi chùa lễ Phật trong ba ngày Tết để thân tâm đều trong sạch mà chiêu cảm phước lạc cho cả năm.

Lúc nhỏ thì không hiểu, nhưng khi lớn lên, học được Phật Pháp thì người viết nhận thức tục lệ sửa soạn và làm mới thân tâm trong ngày Tết là điều rất hay, rất hữu ích. Qua đó, ít nhất, một năm người mình cũng có một cơ hội để tu sửa thân tâm, nhất là tu sửa cái tâm mình để sao cho không nghĩ, không nói và không làm điều gì bất lợi cho mình và người. 


Đó chính là thực hành theo lời Phật dạy là chuyển hóa chánh báo (thân tâm) và y báo (hoàn cảnh sống chung quanh, gia đình và xã hội) bằng cách chuyển hóa ba nghiệp (tức hành tác của thân, miệng và ý) theo điều thiện. Đó cũng chính là làm đúng theo đạo lý nhân quả, tạo nhân lành để có quả lành. 

Nếu chỉ biết cầu mong điều tốt đẹp mà không làm gì để tạo nhân lành thì không thể có kết quả lành đến với mình. Khoa học và thực tế lắm chứ, không mê tín dị đoan chút nào. Nếu mỗi ngày cũng làm mới thân tâm như ngày Tết thì chắc chắn sẽ có nhiều kết quả lợi lạc hơn rất nhiều.

Ở Quận Cam của Tiểu Bang California, Hoa Kỳ, nơi có đông đảo người Việt định cư nhất tại hải ngoại, vào dịp cuối năm âm lịch phố xá cũng tưng bừng vào những ngày mua sắm đổ Tết. Ở đây không thiếu thứ gì, từ hoa quả bánh trái, rim mứt, và những món ăn truyền thống dân tộc. Dường như ở đây, những ngày cận Tết thì có không khí Tết hơn là chính mấy ngày Tết.

Người viết mấy năm nay cứ vào đêm Giao Thừa là đến các chùa tại Little Saigon để làm tin, làm phóng sự cho báo. Nhộn nhịp, vui vẻ và có không khí Tết nhất là đêm Giao Thừa tại các chùa. Chùa nào cũng đông người đi lễ Phật, đi coi văn nghệ và đốt pháo. Vì an ninh, các chính quyền thành phố chỉ cho đốt pháo tại một số chùa có xin phép, nên rất đông người, nhất là giới trẻ là những người ghiền đốt pháo Tết, tập trung về các chùa có đốt pháo để “ăn ké.” 


Có chùa vào giờ Giao Thừa từ trong chánh điện ra tới ngoài đường người đi không có chỗ chen chân. Đúng là đông như ngày hội Tết! Tất nhiên hễ có đông người tụ hội thì không sao tránh khỏi những điều phức tạp. Có chùa than phiền về tình trạng người đi lễ đầu năm bứt bẻ cây cảnh để làm lộc đầu năm khiến cho cây kiểng trong chùa xác xơ tan nát, nên các chùa đã chuẩn bị thật nhiều trái cây như cam quýt hoặc những cành mai, hoa đủ thứ và cả bao lì xì để tặng người đi lễ chùa làm lộc mang về đầu năm.

Ấy vậy mà sao có người đòi bỏ đi tục lệ đón xuân ý nghĩa và cao đẹp này? Thật là mười phần không nên. Nếu sợ tốn kém, phung phí thì chỉ nên giảm bớt ngày nghỉ lễ Tết không để kéo dài quá lâu làm hãng xưởng, công sở bị thiệt hại và ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước thôi. Nhưng đó là chuyện ở trong nước, còn ở hải ngoại thì ngày Tết Việt Nam không ảnh hưởng tới công sở Mỹ, có chăng là một số cơ sở kinh doanh của người Việt, mà cũng chỉ cho nghỉ vài bữa chứ không lâu lắm.

Năm mới, ai cũng mong điều tốt đẹp sẽ đến, nhất là trong bối cảnh nhiều bất an của thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Truyền thông ngày nào cũng tràn ngập những tin tức về Nhà Nước Hồi Giáo (IS) và khủng bố al-Qaeda mở mặt trận quy mô ở Syria, Iraq, vừa rình rập từng cơ hội để nổ bom, bắn giết nhiều người trên khắp thế giới từ Âu Châu sang Mỹ Châu. 


Hàng triệu di dân tại Trung Đông và Bắc Phi tràn qua Châu Âu gây khủng hoảng an ninh, kinh tế, xã hội chưa từng có và tạo dây chuyền bất ổn đến các nước khác trên thế giới. Chưa hết, còn chủ nghĩa dân tộc tả phái, hữu phái cũng đang vùng dậy, qua hình ảnh của một Tổng Thống Nga Vladimir Putin, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng Thống Philippines Rodri-go Duterte, và mới đây Tổng Thống Mỹ Donald Trump. Thêm vào đó là các chủ trương bảo hộ mậu dịch về kinh tế góp phần tạo mối de dọa đến các thành quả có được của toàn cầu hóa trong mấy chục năm qua. 

Trật tự thế giới đang bị những nhà chủ nghĩa dân túy đó sắp xếp lại theo chủ thuyết riêng của họ mà chẳng nghĩ gì tới sự an nguy của toàn nhân loại. Thực trạng của một đất nước Syria tan nát, một Châu Âu đầy bất trắc, một Trung Mỹ chao đảo, một Biển Đông của Thái Bình Dương dậy sóng là các hệ quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Và chắc chắn sẽ còn nhiều bất an nữa sẽ diễn ra trên hành tinh này trong những năm tháng tới!

Không chỉ có chừng đó bất an, thế giới này và đặc biệt ngay trên quê hương Việt Nam tình trạng biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi sinh đã và đang đem tới nhiều thiệt hại to lớn về nhiều mặt, từ kinh tế, xã hội tới an ninh, sức khỏe và đời sống của con người. Thảm họa mực nước biển dâng cao xâm thực làm thiệt hại việc canh tác tại đồng bằng lưu vực Sông Cửu Long; vụ thải chất độc xuống biển của công ty Formosa tại Hà Tĩnh làm cá chết hàng loạt, gây ô nhiễm vùng nước biển, khiến cho hàng triệu người dân nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam lâm vào tình cảnh điêu đứng khổ sở!

Chắc có người sẽ nhíu mày cho rằng bộ hết chuyện nói rồi chăng, sao ngày Tết ngày Nhứt mà lại đem ba cái chuyện không vui này ra nói!

Thưa, trên đời, đã có chuyện vui thì ắt có chuyện không vui. Nhất là người con Phật thì ý thức rõ điều đó hơn ai hết. Và nếu đã thích vui thì cũng phải chấp nhận cái không vui, vì đó là hai mặt của cuộc đời luôn luôn cùng hiện hữu.


Không ai có thể chỉ muốn có điều vui không thôi mà không nhận điều không vui được. Dù mình có phủ nhận, có từ chối, có trốn chạy cái khổ thì nó vẫn sờ sờ ra đó, ngay trong nhà mình, trong cuộc sống mình, trong thân tâm mình. Trong thế giới tương quan duyên khởi này có-không, sinh- diệt, khổ -vui cùng nương nhau mà tồn tại, khi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không.” 


Bởi thế chúng ta mới đi theo đức Phật, mới đến với đạo Phật để học và tu sao cho đạt tới mở mang trí tuệ để nhìn rõ bản chất các pháp và biết cách trực diện để chuyển hóa chứ không trốn chạy nữa. Khi làm được vậy thì mới mong giải thoát khổ đau.

Trong mấy ngày Tết tạm được nhàn hạ một chút, người con Phật cũng nên suy nghiệm là chúng ta có thể làm gì để góp phần giải quyết các nan đề của nhân loại nói chung và ngay chính cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng? Từ vấn đề đó dẫn chúng ta đến hai vấn đề khác là, một, có phải người Phật tử là nên tránh xa những chuyện đời như thế để chỉ lo tu hành thôi; và hai, trong Phật Giáo có giải pháp cho những vấn đề như thế?

Nãy giờ nói chuyện cũng hơi lâu, bình trà đã pha tới nước thứ ba rồi. Nước trà đã lạt, hết ngon. Xin cho phép vài phút để người viết pha lại bình trà khác uống cho đậm đà, nha quý vị. À, nói chuyện say mê đến quên thưởng thức món mứt gừng vừa cay, vừa ngon miệng rồi. Trong lúc chờ pha bình trà khác, xin mời chư vị ăn mứt để biết hương vị Tết Đinh Dậu mặn mà cỡ nào!

Bây giờ chúng ta lại vào chuyện tiếp. Được rồi chứ!
Thật ra, sự tồn tại và phát triển của Phật Giáo trên thế giới hơn hai ngàn rưởi năm và tại Việt Nam hơn hai ngàn năm đã là câu trả lời thật rõ ràng cho chúng ta đối với những vấn đề vừa được nêu ra. 


Tại sao? Bởi vì, nếu Phật Giáo không có khả năng, không đóng góp được gì cho nhân loại và cho đất nước Việt Nam thì Phật Giáo đã không được nhân loại và dân tộc Việt đón nhận một cách trân quý và nhiệt thành như chúng ta đã và đang thấy suốt chiều dài lịch sử trên hai mươi lăm thế kỷ qua.

Trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, có mặt vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ 2 sau tây lịch tại Giao Châu, tác giả Mâu Tử—một tri thức Tàu tị nạn tại Giao Châu và rồi chống lại quan điểm cho rằng nước Trung Hoa là trung tâm của trời đất—khi bàn về đạo hiếu trong Phật Giáo có nói rằng đạo lý đó không phải là lý thuyết suông mà là “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì cứu dân độ thế, khi ngồi một mình thì tu thân.”

Đúng vậy, trên thực tế Phật Pháp không chỉ là lương dược trị bệnh thân tâm cho cá nhân con người mà còn là giải pháp hữu hiệu để trị quốc an dân. Điều này đã được lịch sử chứng thực qua việc đem giáo pháp Phật để bình trị thiên hạ một cách thành công của Vua A Dục ở Ấn Độ, Vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa, các vua triều đại nhà Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam, v.v… Gần đây nhất là cuối năm 1999, Liên Hiệp Quốc cũng đã ra Nghị Quyết lấy giáo pháp từ bi và hòa bình của đức Phật để xoa dịu và hóa giải những bất an, bạo động và khủng hoảng trên thế giới. Cũng nhân Nghị Quyết đó, Liên Hiệp Quốc mới đặt ra việc tổ chức Đại Lễ Vesak, kỷ niệm ngày Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn của đức Phật hàng năm.

Hãy nói chuyện ở nước mình cho dễ thấy. Rằng, nếu mọi người từ dân đến quan đều thực hành lời Phật dạy một cách hữu hiệu, giữ gìn Năm Giới, bỏ bớt tham sân si, thực hiện lòng từ bi thương yêu lẫn nhau [từ bi], biết nghĩ cho người khác [lợi tha], vận dụng được phần nào tiềm lực trí tuệ ngay trong chính mỗi người [trí tuệ], thì sẽ mang lại biết bao lợi lạc cho mình, cho người, cho đất nước và dân tộc. 


Đừng nói đâu xa chỉ xin nói một chuyện là mỗi người dân, mỗi ông quan có thể bỏ bớt lòng tham chiếm hữu của cải của người khác, không trộm cắp của người, của công, giữ lòng thanh bạch thì đã có thể tránh được đại nạn tham nhũng, bóc lộc và hà hiếp dân lành. Ngay như chuyện Fomorsa còn mới tinh trước mắt, suy cho cùng căn nguyên sâu xa nhất cũng là từ lòng tham của con người mà ra, phải không? 

Còn gì nữa chứ! Thì do lòng tham mà các quan có trách nhiệm đã mắt nhắm mắt mở dễ dãi thông qua kế hoạch để nhận hầu bao, do tham lợi mà mờ mất lương tri không nghĩ tới hậu quả tai hại cho người khác, do tham lam mà quên mất việc làm của mình sẽ dẫn tới thiệt hại lớn lao và lâu dài cho môi trường sống của muôn vạn người dân, v.v…

Người viết có cảm nghĩ dường như người con Phật ngày càng có khuynh hướng sống và cho rằng người tu Phật thì không nên can dự vào chuyện đời, nhất là chuyện “chính trị chính em,” thì phải!

Xin nhớ rằng, Phật Giáo sở dĩ được các dân tộc bản đ đón nhận một cách hoan hỷ và xem như là một bộ phận gắn bó của dân tộc đó, như ở nước ta, chẳng hạn, hay có câu nói “đạo pháp và dân tộc như nước với sữa,” là vì Phật Giáo, ngoài việc tự tu tự độ, còn làm được rất nhiều việc lợi lạc cho con người và xã hội, kể cả chuyện trị quốc an dân.

Nhân chuyện này, chúng ta cũng nên chiêm nghiệm lại vấn đề rằng là, tại sao hậu thế ngày nay khi nhắc đến công hạnh cống hiến cho quốc gia xã tắc của các vị thiền sư Việt Nam thời Đinh, Lê, Lý, Trần như Thiền Sư Khuông Việt, Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông, v.v… thì không tiếc lời tán dương, ca ngợi, nhưng lại chê trách việc dấn thân hộ quốc an dân của người con Phật thời nay? Chẳng lẽ những việc quý ngài thời đó làm lại không liên quan đến chuyện chính sự hay sao!

Bình tâm mà xét, chúng ta có thể thấy rằng, ngoài việc đóng vai trò giữ vững ngọn đèn Chánh Pháp, nỗ lực hoằng pháp lợi sinh, người con Phật, cũng cần đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước và xã hội ở nhiều bình diện khác, gồm cả chính trị. Ở đây, chư vị xuất gia vì đời sống tu hành xuất thế không tiện tham gia vào chính sự thì có thể góp phần vào công cuộc giáo dục quần chúng, giáo dục tuổi trẻ, gây ý thức, truyền trao kiến thức để những người Phật tử tại gia này trực tiếp đóng góp vào việc trị quốc an dân. 


Cũng xin nhắc lại rằng, ngày xưa tại nước ta khi chưa có hệ thống giáo dục nhà nước để đào tạo nhân tài ra giúp nước, thì chùa chiền là nơi đảm nhận vai trò giáo dục quốc dân, mà bằng chứng lịch sử rõ nhất là triều đình Nhà Đinh đã cử Thiền Sư Đỗ Pháp Thuận giả làm gã chèo đò để tiếp đón sứ giả Nhà Tống là nhà thơ Lý Giác đi sứ sang Việt Nam; hoặc Vua Lý Công Uẩn được Thiền Sư Vạn Hạnh nuôi dạy trong chùa rồi cho ra làm quan tới chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ trong triều đình Nhà Lê nên mới có cơ hội làm cách mạng để lập ra Nhà Lý.

Tất nhiên, đó không phải là chuyện dễ thực hiện. Xin nêu ra hai cái khó. Trước hết, Phật Giáo Việt Nam hiện tại trong nước vẫn chưa có các trường trung tiểu và đại học được nhà nước công nhận để thực hiện việc giáo dục tuổi trẻ hữu hiệu. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điều có thể làm được như biến nhà chùa thành cơ sở giáo dục nhiều mặt, có thể là nơi dạy kèm sau giờ học, là nơi giúp dạy nghề nghiệp, dạy ngoại ngữ, dạy sử dụng máy điện toán, v.v… 


Chùa cũng có thể lập các tủ sách, hay quy mô hơn thì lập thư viện, tùy theo điều kiện cơ sở vật chất, tài chánh và nhân sự của chùa. Lập được thư viện ngay trong chùa là điều lý tưởng vì vừa giúp các em có sách vở tham khảo, học hành, vừa khuyến khích các em nói riêng và quần chúng nói chung tham gia vào công cuộc đọc sách để vực dậy phong trào đọc sách trên cả nước. Đây là công tác có hiệu quả dài hạn, bởi vì đó là cách bồi đắp nền dân trí của quốc dân thực sự. Khi dân trí cao thì đất nước dễ tiến bộ và phát triển.

Cái khó thứ hai là dù người Phật tử tại gia có quy y, có thọ năm giới, có học Phật Pháp, có Thầy bổn sư dạy dỗ, nhưng khi tham gia vào guồng máy chính trị điều hành đất nước thì chưa chắc giữ được đạo tâm và làm được những gì đã học từ trong chùa, bởi vì khi vào đó thì rất dễ bị lợi danh, quyền hành lôi kéo và khó giữ sạch mình. Đây không những là thực tế xã hội mà còn là nan đề của Phật Giáo Việt Nam. Các Phật tử có tâm có tu thì không thích dấn thân vào chính sự, còn các Phật tử xông pha vào chính trường thì thường, chứ không dám nói là hết tất cả, bị “bát phong xuy động,” rồi đánh mất sơ tâm của mình. Đây là thiếu sót của phương thức giáo dục hay là “bản chất nan di” của con người dù là người con Phật?

Nói tới chuyện này, chúng ta cũng cần quan sát hiệu quả của công tác hoằng pháp, hướng dẫn quần chúng Phật tử sao cho công tác Phật sự mang lại thành quả thực sự. Chẳng hạn, trong một khu phố, trong một ngôi làng, hay rộng hơn trên bình diện cả nước nếu chúng ta thường tự hào tỉ lệ Phật tử trong dân số chiếm phần đông nhưng thực tế xã hội ngày càng có nhiều tệ nạn, tệ đoan, tội ác, bất an lan tràn, thì phải xét lại phương thức góp phần xây dựng con người và xã hội như thế có phù hợp không, có hiệu quả không.

Còn nữa, người con Phật làm sao để hình ảnh của đức Phật, của Phật Giáo luôn luôn thân cận, hòa đồng với dân tộc, với đất nước, đừng biến đức Phật thành vị thần thánh chỉ biết ngồi trên cao ban phước giáng họa và cũng đừng biến Phật Giáo thành một tôn giáo xa cách với đồng bào Phật tử. Hai hình ảnh dễ thấy nhất là vị Tăng Sĩ và ngôi Chùa. 


Ở giữa cộng đồng dân chúng nghèo khổ, đói rách, cơ cực không thể có hình ảnh một vị Tăng Sĩ giàu sang quyền quý và một ngôi chùa đồ sộ nguy nga với những mảnh giấy xác lập kỷ lục chùa to, Phật lớn. Những hình ảnh đó chắc chắn không những biến Phật Giáo thành một ốc đảo giữa nhân gian, mà còn làm đau lòng những người con Phật hiểu biết Chánh Pháp!

Thực tế, con người, dù là người con Phật, khi đi vào đời để hành đạo, nhất là hành đạo trong môi trường xã hội phức tạp, đặc biệt là trong lãnh vực chính trị, thì rất dễ bị biến chất, bị tha hóa, bị thế tục hóa. Chính vì vậy, Đại Thừa trang bị cho người thực hành Bồ Tát Đạo thật kỹ lưỡng, thật nghiêm túc từ lý tưởng, phương thức cho đến nội lực từ bi và trí tuệ. Hình ảnh của Thiện Tài Đồng Tử trong Phẩm Nhập Pháp Giới của Kinh Hoa Nghiêm trên cuộc hành trình tầm sư học đạo và thể nghiệm Phật Pháp, cũng như trang bị các kỹ năng của thế gian pháp cho thấy Đại Thừa rất nghiêm cẩn đối với vấn đề đào tạo nhân sự đi vào đời làm việc đạo. 


Để cuối cùng, Đại Thừa giới thiệu mẫu người đã thành tựu con đường tự giác và giác tha là Cư Sĩ Duy Ma Cật, Cư Sĩ Thắng Man Phu Nhân là những người Phật tử có đủ bản lãnh để xông vào cuộc đời làm mọi việc đời việc đạo mà không bị tha hóa. Tất nhiên, những mẫu người như thế thì không dễ tìm thấy nhiều trong suốt dòng lịch sử Phật Giáo thế giới. 

Nhưng mẫu người lý tưởng đó không phải chỉ là cái hình ảnh biểu tượng chỉ để ngắm, để tôn thờ và để mơ ước, mà trên thực tế cũng đã có những người con Phật làm được tại Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… như được nêu ra ở trên.

Nhắc đến Thiện Tài Đồng Tử thì cũng phải nhắc đến những bậc Thầy trác việt của chàng thanh niên Phật tử này, mà hai trong số rất nhiều thân giáo sư của Thiện Tài là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Văn Thù là bậc đại trí tuệ đã chỉ dẫn cho Thiện Tài từ sơ cơ đến cứu cánh. Còn Bồ Tát Di Lặc người đã khai thị cho Thiện Tài về tâm bồ đề. 


Người con Phật hành Bồ Tát Đạo thì trước hết là phải phát khởi tâm bồ đề, là tâm trên cầu thành Phật và dưới thệ nguyện cứu khổ chúng sinh. Muốn thành Phật và cứu chúng sinh đều cần phải tu tập làm sao để xả kỷ, bỏ ngã chấp. Tâm bồ đề chính là tâm vô ngã. Không có tâm bồ đề thì không làm được việc lớn.

Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai luôn luôn nở nụ cười trên môi vì tâm ngài là tâm bồ đề, tâm giác ngộ, tâm giải thoát mọi khổ đau. Chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngài đầu năm để học theo đại nguyện và đại hạnh hưng phát tâm đồ đề của mình để làm cho mình có đủ nghị lực vượt qua mọi khổ não của cuộc đời đầy bất an.

Lo đàm đạo hăng say quá mà quên cả bình trà pha lần thứ hai cũng đã cạn. Thôi thì, xin dừng lại câu chuyện đầu năm ở đây để chúng ta cùng pha trà, ăn mứt và tiếp tục đón xuân Đinh Dậu.

Kính chúc chư vị một năm mới tràn đầy sức khỏe, phước lộc và bình an.


Xem thêm:
Đọc thêm..

Phật pháp ứng dụng chào xuân  


Tàn đông mai nở bên hiên
Xuân sang gợi nhớ về miền ấu thơ, 

Thời gian đi chẳng đợi chờ,
Dấu chân tuổi nhỏ bây giờ tìm đâu? 

Trải qua bao những bể dâu!
Tang thương lỡ cuộc niềm đau nỗi đời 
Chiều tàn lặng ngắm mây trôi,
Ngồi trông cố quận nhớ thời xuân xưa.


Xuân nầy, xuân nữa xuân nào nữa 
Đất khách không ngăn nỗi nhớ nhà 
Ta đứng trông vời mây cố quận 
Nghe buồn quặn thắt đến xương da

Xuân nầy, xuân nữa xuân nào nữa 

Ký ức trong ta chẳng nhạt nhòa 
Vũ trụ xoay vần theo năm tháng
Nhưng lòng thương nhớ chẳng phôi pha.

Ta mơ về đứng bên thềm cũ
Để ngắm mai vàng nở trước sân 

Lắng nghe pháo tết vang trong xóm 
Rộn rả vui cùng tiếng trống lân.

Sẽ có một ngày ta trở lại
Đứng bên thềm tuổi nhỏ nơi đây 

Dẫu cội mai già không còn nữa 
Nhưng lòng ta, ta chẳng đổi thay.

Xem thêm:

Chào xuân


Phật pháp ứng dụng chào xuân  


Tàn đông mai nở bên hiên
Xuân sang gợi nhớ về miền ấu thơ, 

Thời gian đi chẳng đợi chờ,
Dấu chân tuổi nhỏ bây giờ tìm đâu? 

Trải qua bao những bể dâu!
Tang thương lỡ cuộc niềm đau nỗi đời 
Chiều tàn lặng ngắm mây trôi,
Ngồi trông cố quận nhớ thời xuân xưa.


Xuân nầy, xuân nữa xuân nào nữa 
Đất khách không ngăn nỗi nhớ nhà 
Ta đứng trông vời mây cố quận 
Nghe buồn quặn thắt đến xương da

Xuân nầy, xuân nữa xuân nào nữa 

Ký ức trong ta chẳng nhạt nhòa 
Vũ trụ xoay vần theo năm tháng
Nhưng lòng thương nhớ chẳng phôi pha.

Ta mơ về đứng bên thềm cũ
Để ngắm mai vàng nở trước sân 

Lắng nghe pháo tết vang trong xóm 
Rộn rả vui cùng tiếng trống lân.

Sẽ có một ngày ta trở lại
Đứng bên thềm tuổi nhỏ nơi đây 

Dẫu cội mai già không còn nữa 
Nhưng lòng ta, ta chẳng đổi thay.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Từ nhỏ cho đến khi tôi gặp được duyên lành có cơ hội tìm hiểu Phật Pháp, ít khi tôi suy nghĩ đến cuộc sống tâm linh về phương diện tôn giáo bởi vì tôi thấy tôn giáo vừa mê tín vừa mù quáng và cực đoan. 

Lắm lúc tôi có suy tư về đời sống tinh thần đứng trên bình diện triết học, và tôi rất thích dùng lý trí để suy luận và tìm hiểu. Chính vì vậy mà tôi cứ nghĩ tôn giáo nặng phần mê tín dị đoan, và tôi không ưa mê tín tí nào cả. Thú thật thì tôi vừa sợ và vừa ghét mê tín chính vì lý do là mình không hiểu được và không cắt nghĩa được những hiện tượng huyền bí.


Phật pháp ứng dụng Vì sao tôi theo Phật

Rồi tôi đọc được lịch sử Đức Thích Ca và biết là Ngài luôn luôn nhắc nhở Phật tử là đừng bao giờ vội tin những lời dạy của Ngài vì kính trọng sùng bái Ngài mà hãy dùng lý trí tìm hiểu cặn kẽ xem kỹ giáo lý do Ngài truyền dạy đúng hay sai trước khi chấp nhận và đem ứng dụng cho đời mình. 


Đừng tin một cách mù quáng. Tuyệt quá! Trên thế gian này, ngòai Phật giáo, tôi chưa được biết có tôn giáo nào khác khuyến khích hay cho phép tín đồ nghi vấn lý giải các giáo điều của họ trước khi tin.

Không còn tin mù quáng nữa. Không còn quyền năng linh thiên huyền bí nữa. Con người đã được giải phóng khỏi vòng kiểm tỏa của sợ hãi mê tín. Đức Thích Ca đã khai mở thời đại lý trí cho nhân loại cả hơn 2500 năm trước ở Đông phương.

Tôi rất đỗi vui mừng khi biết đến luật nhân quả hay luân hồi giải thích trách nhiệm của con người. Đây quả thật mới là công lý vạn năng của vũ trụ - ai làm nấy chịu; gieo quả nào hái quả nấy. Và nhờ vào lý trí và trách nhiệm, con người đứng trên mọi sinh vật có quyền hưởng được tự do. 


Thú thật tôi phải công nhận sự thật khá khiêm nhường là tự do của con người không bao la cho mấy; chúng ta chỉ có tự do lựa chọn mà thôi còn những tự do khác đều có rất nhiều giới hạn; và ngay tự do lựa chọn cũng bị giới hạn của thời gian. 

Sự tự do lựa chọn của chúng ta chỉ hiện hữu giữa ngưỡng cửa thời gian chật hẹp nhất của tác nhân và phản ứng; nhưng cái sự chọn lựa chớp nhoáng trong tích tắc đó tạo nên tất cả mọi khác biệt giữa con người và những gì còn lại trong vũ trụ. Bởi lẽ đó quyền tự do của con người là một đặc ân quá lớn so với thân phận bé nhỏ của ta đối với sự vĩ đại mênh mông của vạn vật.

Tôi thấy tôi được giải phóng ra khỏi sự kiểm soát ngột ngạt của sợ hãi nằm trong những gì mình không biết. Tôi tìm thấy địa vị duy nhất của thân phận làm người của mình trên thế gian này trên căn bản của lý trí, trách nhiệm và tự do. Tôi tìm ra được địa bàn đạo đức hướng dẫn cho tôi biết, như nhà hiền triết Socrates đã nói ngày xưa, "làm sao sống cho phải" trong những khi mình không biết lối nào đi cho đúng đạo làm người.

Tôi xin hết lòng thành kính cảm tạ ơn Đức Thế Tôn vì trí tuệ của Ngài, và tôi xin hết lòng thành kính nghe theo lời dạy bảo của Đức Thế Tôn về:
-    Ba sự thật vô thường, khổ và vô ngã để thoát khỏi thù hận, tham vọng và vô minh;
-    Bốn tâm từ bi hỷ xả để được hạnh phúc cho mình và cho mọi người;
-    Năm giới để sống đời đạo đức cho tâm mình được bình an.


Xem thêm:

Vì sao tôi theo Phật

Từ nhỏ cho đến khi tôi gặp được duyên lành có cơ hội tìm hiểu Phật Pháp, ít khi tôi suy nghĩ đến cuộc sống tâm linh về phương diện tôn giáo bởi vì tôi thấy tôn giáo vừa mê tín vừa mù quáng và cực đoan. 

Lắm lúc tôi có suy tư về đời sống tinh thần đứng trên bình diện triết học, và tôi rất thích dùng lý trí để suy luận và tìm hiểu. Chính vì vậy mà tôi cứ nghĩ tôn giáo nặng phần mê tín dị đoan, và tôi không ưa mê tín tí nào cả. Thú thật thì tôi vừa sợ và vừa ghét mê tín chính vì lý do là mình không hiểu được và không cắt nghĩa được những hiện tượng huyền bí.


Phật pháp ứng dụng Vì sao tôi theo Phật

Rồi tôi đọc được lịch sử Đức Thích Ca và biết là Ngài luôn luôn nhắc nhở Phật tử là đừng bao giờ vội tin những lời dạy của Ngài vì kính trọng sùng bái Ngài mà hãy dùng lý trí tìm hiểu cặn kẽ xem kỹ giáo lý do Ngài truyền dạy đúng hay sai trước khi chấp nhận và đem ứng dụng cho đời mình. 


Đừng tin một cách mù quáng. Tuyệt quá! Trên thế gian này, ngòai Phật giáo, tôi chưa được biết có tôn giáo nào khác khuyến khích hay cho phép tín đồ nghi vấn lý giải các giáo điều của họ trước khi tin.

Không còn tin mù quáng nữa. Không còn quyền năng linh thiên huyền bí nữa. Con người đã được giải phóng khỏi vòng kiểm tỏa của sợ hãi mê tín. Đức Thích Ca đã khai mở thời đại lý trí cho nhân loại cả hơn 2500 năm trước ở Đông phương.

Tôi rất đỗi vui mừng khi biết đến luật nhân quả hay luân hồi giải thích trách nhiệm của con người. Đây quả thật mới là công lý vạn năng của vũ trụ - ai làm nấy chịu; gieo quả nào hái quả nấy. Và nhờ vào lý trí và trách nhiệm, con người đứng trên mọi sinh vật có quyền hưởng được tự do. 


Thú thật tôi phải công nhận sự thật khá khiêm nhường là tự do của con người không bao la cho mấy; chúng ta chỉ có tự do lựa chọn mà thôi còn những tự do khác đều có rất nhiều giới hạn; và ngay tự do lựa chọn cũng bị giới hạn của thời gian. 

Sự tự do lựa chọn của chúng ta chỉ hiện hữu giữa ngưỡng cửa thời gian chật hẹp nhất của tác nhân và phản ứng; nhưng cái sự chọn lựa chớp nhoáng trong tích tắc đó tạo nên tất cả mọi khác biệt giữa con người và những gì còn lại trong vũ trụ. Bởi lẽ đó quyền tự do của con người là một đặc ân quá lớn so với thân phận bé nhỏ của ta đối với sự vĩ đại mênh mông của vạn vật.

Tôi thấy tôi được giải phóng ra khỏi sự kiểm soát ngột ngạt của sợ hãi nằm trong những gì mình không biết. Tôi tìm thấy địa vị duy nhất của thân phận làm người của mình trên thế gian này trên căn bản của lý trí, trách nhiệm và tự do. Tôi tìm ra được địa bàn đạo đức hướng dẫn cho tôi biết, như nhà hiền triết Socrates đã nói ngày xưa, "làm sao sống cho phải" trong những khi mình không biết lối nào đi cho đúng đạo làm người.

Tôi xin hết lòng thành kính cảm tạ ơn Đức Thế Tôn vì trí tuệ của Ngài, và tôi xin hết lòng thành kính nghe theo lời dạy bảo của Đức Thế Tôn về:
-    Ba sự thật vô thường, khổ và vô ngã để thoát khỏi thù hận, tham vọng và vô minh;
-    Bốn tâm từ bi hỷ xả để được hạnh phúc cho mình và cho mọi người;
-    Năm giới để sống đời đạo đức cho tâm mình được bình an.


Xem thêm:
Đọc thêm..
Cần lao trong tư duy chơn chánh kết quả việc làm ấy đáng quý hơn vàng.
 

Tiền của bạc vàng không do sức cần lao của ta mà lại, hãy coi chừng, nó độc hơn rắn dữ.

Trong cuốn truyện cổ Phật giáo có câu chuyện mang tựa đề như trên, nội dung kể lại rằng:


Ngày xưa lúc Phật còn tại thế, một hôm Đức Phật nhập thiền định quán, biết được hiện trong lúc trưa hè oi ả này có kẻ đang còn đi mót lúa ngoài đồng. Ngài muốn độ kẻ ấy, nên liền bôn ba ra đồng. Khi nghe có tiếng chân người lại, người mót lúa ngước nhìn và thấy Phật, lòng rất vui mừng cúi đầu đảnh lễ, Phật bảo:

- Hãy theo ta, tin ta tuyệt đối, ngươi sẽ có hạnh phúc.
Anh nông dân vui mừng thọ nhận theo Phật. Khi đến một gò mối cao bên cạnh có phiến đá và một cây hoa dại, Phật bảo: “Đấy là vàng.” Anh vội vã nhổ cây hoa và bới đất lên. Được một lúc từ dưới đất phun lên một vòi nước. Khi chung quanh toàn là đất khô cằn, đầy sỏi cát. Đang bàng hoàng anh chợt thấy bóng Phật đã ra đi, anh vội vàng chạy theo. Con nước nhỏ vẫn rỉ rả chảy theo hướng Ngài. 


Phật pháp ứng dụng rắn độc và vàng

Đến một chỗ khác lại càng cằn cỗi hơn nhưng được chỗ bằng phẳng và không có đá sỏi. Phật chỉ xuống đất bảo: “Đây là vàng.” Anh lật đật đào nhưng không phát hiện ra vàng, nhìn lên Phật đã bỏ đi. Anh lật đật chạy theo, khi bắt kịp Phật lại bảo: “Đây chính thị là vàng.” Anh siêng năng đào, kết quả anh nhặt được trái bắp khô làm giống được cột gói cẩn thận. Nhìn ra chung quanh rạch nước anh đào lần đầu cũng đã chảy đến. Đang ngắm nhìn cảnh vật thì Phật lại ra đi, anh vội vã chạy theo. Khi gặp Phật bảo: “Không thấy vàng à?”

Anh buồn bã đáp không. Phật lắc đầu và chỉ ngay trước mắt anh và bảo: “Còn đây là rắn độc,” rồi Ngài bỏ đi. Anh suy gẫm: “Chắc có lẽ đây mới thật là vàng vì lúc chỉ có đất mà Ngài bảo là vàng, âu ta đào lần nữa xem sao?” Quả vậy mới đào sơ qua lớp đất đầu anh bắt gặp một chiếc rương to. Trên nắp rương có sẵn một chiếc cái túi đựng chìa khóa để mở rương. 


Khi anh mở rương ra thì quả thật là vàng và các thứ ngọc châu vô cùng quý giá. Anh lấy cả gánh cũng không hết. Anh lấp lại về nhà sai vợ con ra lén gánh về nhà. Anh trở nên giàu có nhanh chóng. Việc ấy đến tai vua, vua cho điều tra và biết chắc anh được của trân quý, mà các thứ trân quý này chỉ có hoàng tộc mới có. 

Bởi vậy anh bị khép tội đồng lõa với kẻ cướp và phải bị xử trảm bêu đầu. Khi đao phủ dẫn anh ra pháp trường, anh nhớ lại lời Phật dạy, nay anh đã hiểu được thâm ý của Ngài nhưng đã muộn nên hướng về hoàng cung và vận dụng hết sức lực của mình hét lên: “Đó không phải là vàng ngọc. Chính nó là rắn độc.” Vị pháp quan thấy lạ, cho người cấp báo lên vua, vua ra lệnh dắt tội nhân vào, vua phán:

-    Sự thật thế nào ngươi hãy nói rõ. Tại sao trân châu vô giá, ngươi dám bảo nó là rắn độc?

Anh thuật rõ đầu đuôi câu chuyãn và kết luận:
Tâu bệ hạ, nếu tôi hiểu sâu xa lời Phật, đem sức cần lao của mình và gia đình mình canh tác vùng đất khô cằn nhưng bằng phẳng kia. Đưa nước từ con suối vừa khai ngòi dẫn đến, với trái bắp giống tốt, tôi đã biến vùng ấy thành một vùng trù phú, tôi sẽ giàu có. Còn số vàng bạc này, đây không do sức cần lao của mình mà có. Nay nó làm tổn hại đến sanh mạng của thần, rõ đấy là một thứ rắn độc. Nó đã cắn thần bằng bản án xử trảm bêu đầu.

Sau một lúc gẫm suy, nhà vua phán: “Lời dạy của Như Lai rõ ràng là vàng ngọc. Ta tha cho ngươi tội chết. Lại trao cho ngươi trọn quyền khai thác vùng đất khô bằng con suối nước Như Lai đã chỉ cho ngươi. Còn vàng bạc đây ta sẽ xuất kho xây dựng các công trình phúc lợi để bá tánh hưởng dụng.”

Không bao lâu sau trong các làng mạc đã có trường mới, có giếng nước trong và các bệnh xá chữa bịnh cho dân. Đặc biệt cánh đồng khô ngày xưa nay đã xanh um tươi mát vì hoa mầu. Người nông dân hối ngộ ấy nay đã trở thành người giàu có cần cù, yêu đời và biết tương thân đùm bọc kẻ yếu nghèo.

Anh chị em thân mến! Chỉ có sức cần lao dù bằng chân tay hay trí óc mới làm toát ra cái ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống. Nó là thứ trân châu kỳ báu không hư mất vậy.


Xem thêm:

Rắn độc và vàng

Cần lao trong tư duy chơn chánh kết quả việc làm ấy đáng quý hơn vàng.
 

Tiền của bạc vàng không do sức cần lao của ta mà lại, hãy coi chừng, nó độc hơn rắn dữ.

Trong cuốn truyện cổ Phật giáo có câu chuyện mang tựa đề như trên, nội dung kể lại rằng:


Ngày xưa lúc Phật còn tại thế, một hôm Đức Phật nhập thiền định quán, biết được hiện trong lúc trưa hè oi ả này có kẻ đang còn đi mót lúa ngoài đồng. Ngài muốn độ kẻ ấy, nên liền bôn ba ra đồng. Khi nghe có tiếng chân người lại, người mót lúa ngước nhìn và thấy Phật, lòng rất vui mừng cúi đầu đảnh lễ, Phật bảo:

- Hãy theo ta, tin ta tuyệt đối, ngươi sẽ có hạnh phúc.
Anh nông dân vui mừng thọ nhận theo Phật. Khi đến một gò mối cao bên cạnh có phiến đá và một cây hoa dại, Phật bảo: “Đấy là vàng.” Anh vội vã nhổ cây hoa và bới đất lên. Được một lúc từ dưới đất phun lên một vòi nước. Khi chung quanh toàn là đất khô cằn, đầy sỏi cát. Đang bàng hoàng anh chợt thấy bóng Phật đã ra đi, anh vội vàng chạy theo. Con nước nhỏ vẫn rỉ rả chảy theo hướng Ngài. 


Phật pháp ứng dụng rắn độc và vàng

Đến một chỗ khác lại càng cằn cỗi hơn nhưng được chỗ bằng phẳng và không có đá sỏi. Phật chỉ xuống đất bảo: “Đây là vàng.” Anh lật đật đào nhưng không phát hiện ra vàng, nhìn lên Phật đã bỏ đi. Anh lật đật chạy theo, khi bắt kịp Phật lại bảo: “Đây chính thị là vàng.” Anh siêng năng đào, kết quả anh nhặt được trái bắp khô làm giống được cột gói cẩn thận. Nhìn ra chung quanh rạch nước anh đào lần đầu cũng đã chảy đến. Đang ngắm nhìn cảnh vật thì Phật lại ra đi, anh vội vã chạy theo. Khi gặp Phật bảo: “Không thấy vàng à?”

Anh buồn bã đáp không. Phật lắc đầu và chỉ ngay trước mắt anh và bảo: “Còn đây là rắn độc,” rồi Ngài bỏ đi. Anh suy gẫm: “Chắc có lẽ đây mới thật là vàng vì lúc chỉ có đất mà Ngài bảo là vàng, âu ta đào lần nữa xem sao?” Quả vậy mới đào sơ qua lớp đất đầu anh bắt gặp một chiếc rương to. Trên nắp rương có sẵn một chiếc cái túi đựng chìa khóa để mở rương. 


Khi anh mở rương ra thì quả thật là vàng và các thứ ngọc châu vô cùng quý giá. Anh lấy cả gánh cũng không hết. Anh lấp lại về nhà sai vợ con ra lén gánh về nhà. Anh trở nên giàu có nhanh chóng. Việc ấy đến tai vua, vua cho điều tra và biết chắc anh được của trân quý, mà các thứ trân quý này chỉ có hoàng tộc mới có. 

Bởi vậy anh bị khép tội đồng lõa với kẻ cướp và phải bị xử trảm bêu đầu. Khi đao phủ dẫn anh ra pháp trường, anh nhớ lại lời Phật dạy, nay anh đã hiểu được thâm ý của Ngài nhưng đã muộn nên hướng về hoàng cung và vận dụng hết sức lực của mình hét lên: “Đó không phải là vàng ngọc. Chính nó là rắn độc.” Vị pháp quan thấy lạ, cho người cấp báo lên vua, vua ra lệnh dắt tội nhân vào, vua phán:

-    Sự thật thế nào ngươi hãy nói rõ. Tại sao trân châu vô giá, ngươi dám bảo nó là rắn độc?

Anh thuật rõ đầu đuôi câu chuyãn và kết luận:
Tâu bệ hạ, nếu tôi hiểu sâu xa lời Phật, đem sức cần lao của mình và gia đình mình canh tác vùng đất khô cằn nhưng bằng phẳng kia. Đưa nước từ con suối vừa khai ngòi dẫn đến, với trái bắp giống tốt, tôi đã biến vùng ấy thành một vùng trù phú, tôi sẽ giàu có. Còn số vàng bạc này, đây không do sức cần lao của mình mà có. Nay nó làm tổn hại đến sanh mạng của thần, rõ đấy là một thứ rắn độc. Nó đã cắn thần bằng bản án xử trảm bêu đầu.

Sau một lúc gẫm suy, nhà vua phán: “Lời dạy của Như Lai rõ ràng là vàng ngọc. Ta tha cho ngươi tội chết. Lại trao cho ngươi trọn quyền khai thác vùng đất khô bằng con suối nước Như Lai đã chỉ cho ngươi. Còn vàng bạc đây ta sẽ xuất kho xây dựng các công trình phúc lợi để bá tánh hưởng dụng.”

Không bao lâu sau trong các làng mạc đã có trường mới, có giếng nước trong và các bệnh xá chữa bịnh cho dân. Đặc biệt cánh đồng khô ngày xưa nay đã xanh um tươi mát vì hoa mầu. Người nông dân hối ngộ ấy nay đã trở thành người giàu có cần cù, yêu đời và biết tương thân đùm bọc kẻ yếu nghèo.

Anh chị em thân mến! Chỉ có sức cần lao dù bằng chân tay hay trí óc mới làm toát ra cái ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống. Nó là thứ trân châu kỳ báu không hư mất vậy.


Xem thêm:
Đọc thêm..
“Trước khi làm một việc gì Phải nghĩ đến kết quả của nó.”

Thuở nước Vua Lưu Ly vì thù hiềm dòng họ Thích Ca mới cử binh mà sang đánh nước Ca Tỳ La Vệ. Bắt được một nhóm thiếu nữ quyến thuộc của Phật, quân lính vua Lưu Ly toan hãm hiếp. Các người này cương quyết thà chịu chết chớ không để mất trinh tiết. Không được thỏa mãn thú tánh của mình, quân giặc liền đuổi xua tất cả thiếu nữ ra đồng đánh đập một cách tàn ác, đến khi các người ấy ngã gục mới chịu bỏ đi. Sau khi tỉnh hồn lại, các cô thiếu nữ đồng nhau một chí hướng tìm chỗ ẩn tu. Trong lúc đi lang thang giữa đồng hoang, bỗng đâu các cô gặp bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni đi khất thực về. Các cô mừng rỡ đón chào bà và kể hết nỗi khổ đau để cầu xin theo bà xuất gia học đạo.


Phật pháp ứng dụng nhân nào quả nấy

Ðộng lòng từ bi, bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni thâu nhận các cô làm đệ tử. Từ ấy các cô tuy được nơi tu tập mà người nào cũng thường than thân tủi phận. Sư bà thương tình khuyên dỗ: Các con mới gặp bao nhiêu tai nạn, vừa qua đã cho là khổ. Nếu các con biết rõ đời ta, thì các con phiền não đến bậc nào! Các con ôi! Khi ta còn ngoài đời, thì ta cũng có đôi bạn như ai. Theo phong tục nước ta, hễ mỗi khi gần sanh thì các cô gái có chồng được đưa về nhà cha mẹ ruột. Cũng như hai lần trước lần thứ ba, lúc cận ngày khai hoa nở nhụy, cả gia đình ta: Chồng vợ con cái cùng kẻ ăn người ở trong nhà đều kéo nhau về mái hiên cha mẹ ta cả. Trong khi đi đường xa vất vả, bữa nọ, vừa băng ngang cánh đồng vắng cách xa làng mạc, đến con sông thì trời sắp tối. Rủi gặp con nước ròng lại không thu-yền, chẳng biết làm sao qua sông, gia quyến ta phải tìm gò nổng tạm nghỉ một đêm, đợi sáng ngày nước cạn sẽ đi qua, mới gặp chỗ cao ráo sạch sẽ thì bụng ta quặn đau. Một chặp sau ta sanh một đứa con trai thứ ba giống hệt hai anh nó. Chồng ta và kẻ tùy tùng lập tức kiếm cây lá làm tạm cái sàn gác cho mẹ con ta nằm đó.

Khi lo xong cho bốn mẹ con ta có chỗ nằm kín đáo, ấm áp, chồng ta với bạn bè mới lên một cái nồng gần bên nghỉ ngơi, một sự bất ngờ rùng rợn đã xảy ra trong giữa đêm trường canh vắng là: nhiều con rắn độc to tướng đánh hơi người bèn bò đến nuốt cả chồng ta với các tôi tớ, mẹ con ta nhờ nằm trên sàn cao, dưới có bếp lửa đỏ, loài mảng xà không dám lại gần, sáng ngày thừa dịp nước ròng sát, ta định lội qua sông về quê quán chớ không còn phương nào hay hơn nữa. Ta bèn cõng con đầu lòng đưa sang qua bờ sông bên kia trước. Ta lội trở lại bên này, đai đứa con thứ hai trên lưng, còn đứa mới sanh thì để vào cái đãy vải ngậm ở miệng và đi từng bước dưới dòng nước. Ðến giữa sông ta nghe bên kia bờ tiếng con ta rú lên bài hãi. Thì khốn thay! một con hổ vồ lấy đứa con đầu lòng, rồi tha tuốt vào rừng, trước cảnh đau thương bất ngờ ta không còn tỉnh trí, hả miệng kêu to, đứa bé trong đãy rơi ngay xuống nước. Bấm loạn tâm thần tay chân run rẩy, ta cứ lặn hụp dưới đáy sông, mò đứa bé mới nở, quên lửng đứa con thứ hai đai trên lưng mà ta đã vô tình giết nó chết ngộp. Thảm thiết thay! Chỉ trong một ngày đêm, tới sáng mà cả gia quyến ta: chồng, con, tôi, bạn đều chết không kịp trối. Ta đành rơi lệ, nuốt sầu gắng gượng lội tới mé lên bờ, kiệt sức quá, ta ngã xỉu ngất đi, không còn biết sự gì nữa.

Trong lúc đó có một lũ ăn cướp đi qua gặp ta bắt đem về nhà nuôi rồi ép ta làm vợ. Chẳng bao lâu tên tướng cướp làm chồng sau của ta bị bắt và lãnh án tử hình. Ta cũng bị chôn sống theo chồng do phong tục. Sau mấy tiếng đồng hồ bị lấp đất, có bọn cướp khác đến đào mả định lấy của quý. Thấy ta còn thoi thóp, chúng bèn cứu ta đem về săn sóc lành mạnh rồi cũng bắt buộc ta lấy tên chánh đảng làm chồng.

Ăn ở với nhau được ít lâu, ta có thai. Tối nào, trước khi đi làm việc bất lương, chồng ta cũng dặn phải chực chờ mở cửa cho ông ta vào mau mau khi có tai nạn xảy đến. Một hôm, ông ta vừa ra khỏi nhà thì ta đau bụng, cách một chập sau, ta sanh một đứa con gái. Ðồng thời chồng ta bị người đánh đuổi chạy về rất gấp. Ta mắc bận bịu vì đứa con nên không kịp mở cửa. Ông giận dữ tung cửa vào định giết ta? Ta chỉ đứa con mới nở hy vọng nó nghĩ tình máu thịt mà bớt cơn thịnh nộ đi chăng. Sau ta thất vọng: ông gắt gỏng, chỉ mặt đứa nhỏ bảo rằng: nó là nghịch tử báo đời. Rồi ông liền giết ngay; còn kề gươm vào cổ ta, bắt buộc ta phải ăn thịt đứa nhỏ ấy thì mới tha.

Cách ít hôm sau, tướng cướp này bị sa vào lưới pháp luật chịu án tử hình. Ta cũng bị chôn sống một phen nữa gần bên mé rừng. Ít phút sau có một con cọp đến moi mả tha xác người chết ăn thịt. Thân ta chôn ở dưới thây chồng ta khỏi bị cọp ăn. Ðược thoát nạn này, ta ngẫm nghĩ cuộc đời của ta vào sanh ra tử, khốn khổ vô cùng, nên ta không còn tiếc những ngày sống thừa nữa, ta mới quyết chí xuất gia đầu Phật.

Các cô thiếu nữ nghe nói hết sức kinh nghi mới bạch rằng: “Nay sư bà đã tu hành đắc đạo, sư bà có thể cho chúng con rõ nguyên nhân nào sư bà gặp lắm nỗi gian nan rùng rợn như thế không?”
Bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni thong thả đáp: “Các con ơi! Có chi lạ đâu, đó là quả báo như muôn ngàn quả báo khác của tiền nhân kiếp trước mà thôi. Ðây các con hãy nghe: Nguyên kiếp trước của ta, một thuở nọ, ta có chồng có con. Chồng ta có vợ lẻ cũng có con như ta. Vì ghen tương mà nhất là tham của, ta sợ gia tài của chồng ta phải chia cho con vợ bé thì mẹ con ta chẳng được phần nhiều, nên thừa dịp chồng ta với người thiếp đi vắng, ở nhà ta giết con chúng nó hết. Chuyện sát nhân đem đến cửa quan, tra khảo cách nào ta cũng chối mãi và ta lại thề dối rằng: “Nếu tôi có giết con chồng tôi, thì tôi sẽ bị khổ sở vô cùng, cả nhà tôi tan nát, các con tôi sẽ bị cọp tha, chết chìm, tôi sẽ bị chôn sống, chết ngộp v.v… Nếu tôi có ác tâm giết con vợ lẻ chồng tôi, thì ngày kia tôi sẽ bị người ta bắt buộc tôi phải ăn thịt người con tôi.”

Ðó các con có thấy không, một lời nói ra thì va lấy, một tiếng thề dối mà mắc ngay, một hành động ác thì bị quả báo dữ không sai. Biết được lý nhân quả như bóng theo hình, tợ vang theo tiếng, thì các con không còn thắc mắc gì với những tai nạn của các con ngày nay cũng như của bà ngày xưa. Cho hay nhân nào quả nấy, chớ khá than van; vì không bao giờ một việc xảy ra mà không có duyên cớ. Vậy khuyên các con phải tin nhân quả mà lo tu hành.


Xem thêm:

Nhân nào quả nấy

“Trước khi làm một việc gì Phải nghĩ đến kết quả của nó.”

Thuở nước Vua Lưu Ly vì thù hiềm dòng họ Thích Ca mới cử binh mà sang đánh nước Ca Tỳ La Vệ. Bắt được một nhóm thiếu nữ quyến thuộc của Phật, quân lính vua Lưu Ly toan hãm hiếp. Các người này cương quyết thà chịu chết chớ không để mất trinh tiết. Không được thỏa mãn thú tánh của mình, quân giặc liền đuổi xua tất cả thiếu nữ ra đồng đánh đập một cách tàn ác, đến khi các người ấy ngã gục mới chịu bỏ đi. Sau khi tỉnh hồn lại, các cô thiếu nữ đồng nhau một chí hướng tìm chỗ ẩn tu. Trong lúc đi lang thang giữa đồng hoang, bỗng đâu các cô gặp bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni đi khất thực về. Các cô mừng rỡ đón chào bà và kể hết nỗi khổ đau để cầu xin theo bà xuất gia học đạo.


Phật pháp ứng dụng nhân nào quả nấy

Ðộng lòng từ bi, bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni thâu nhận các cô làm đệ tử. Từ ấy các cô tuy được nơi tu tập mà người nào cũng thường than thân tủi phận. Sư bà thương tình khuyên dỗ: Các con mới gặp bao nhiêu tai nạn, vừa qua đã cho là khổ. Nếu các con biết rõ đời ta, thì các con phiền não đến bậc nào! Các con ôi! Khi ta còn ngoài đời, thì ta cũng có đôi bạn như ai. Theo phong tục nước ta, hễ mỗi khi gần sanh thì các cô gái có chồng được đưa về nhà cha mẹ ruột. Cũng như hai lần trước lần thứ ba, lúc cận ngày khai hoa nở nhụy, cả gia đình ta: Chồng vợ con cái cùng kẻ ăn người ở trong nhà đều kéo nhau về mái hiên cha mẹ ta cả. Trong khi đi đường xa vất vả, bữa nọ, vừa băng ngang cánh đồng vắng cách xa làng mạc, đến con sông thì trời sắp tối. Rủi gặp con nước ròng lại không thu-yền, chẳng biết làm sao qua sông, gia quyến ta phải tìm gò nổng tạm nghỉ một đêm, đợi sáng ngày nước cạn sẽ đi qua, mới gặp chỗ cao ráo sạch sẽ thì bụng ta quặn đau. Một chặp sau ta sanh một đứa con trai thứ ba giống hệt hai anh nó. Chồng ta và kẻ tùy tùng lập tức kiếm cây lá làm tạm cái sàn gác cho mẹ con ta nằm đó.

Khi lo xong cho bốn mẹ con ta có chỗ nằm kín đáo, ấm áp, chồng ta với bạn bè mới lên một cái nồng gần bên nghỉ ngơi, một sự bất ngờ rùng rợn đã xảy ra trong giữa đêm trường canh vắng là: nhiều con rắn độc to tướng đánh hơi người bèn bò đến nuốt cả chồng ta với các tôi tớ, mẹ con ta nhờ nằm trên sàn cao, dưới có bếp lửa đỏ, loài mảng xà không dám lại gần, sáng ngày thừa dịp nước ròng sát, ta định lội qua sông về quê quán chớ không còn phương nào hay hơn nữa. Ta bèn cõng con đầu lòng đưa sang qua bờ sông bên kia trước. Ta lội trở lại bên này, đai đứa con thứ hai trên lưng, còn đứa mới sanh thì để vào cái đãy vải ngậm ở miệng và đi từng bước dưới dòng nước. Ðến giữa sông ta nghe bên kia bờ tiếng con ta rú lên bài hãi. Thì khốn thay! một con hổ vồ lấy đứa con đầu lòng, rồi tha tuốt vào rừng, trước cảnh đau thương bất ngờ ta không còn tỉnh trí, hả miệng kêu to, đứa bé trong đãy rơi ngay xuống nước. Bấm loạn tâm thần tay chân run rẩy, ta cứ lặn hụp dưới đáy sông, mò đứa bé mới nở, quên lửng đứa con thứ hai đai trên lưng mà ta đã vô tình giết nó chết ngộp. Thảm thiết thay! Chỉ trong một ngày đêm, tới sáng mà cả gia quyến ta: chồng, con, tôi, bạn đều chết không kịp trối. Ta đành rơi lệ, nuốt sầu gắng gượng lội tới mé lên bờ, kiệt sức quá, ta ngã xỉu ngất đi, không còn biết sự gì nữa.

Trong lúc đó có một lũ ăn cướp đi qua gặp ta bắt đem về nhà nuôi rồi ép ta làm vợ. Chẳng bao lâu tên tướng cướp làm chồng sau của ta bị bắt và lãnh án tử hình. Ta cũng bị chôn sống theo chồng do phong tục. Sau mấy tiếng đồng hồ bị lấp đất, có bọn cướp khác đến đào mả định lấy của quý. Thấy ta còn thoi thóp, chúng bèn cứu ta đem về săn sóc lành mạnh rồi cũng bắt buộc ta lấy tên chánh đảng làm chồng.

Ăn ở với nhau được ít lâu, ta có thai. Tối nào, trước khi đi làm việc bất lương, chồng ta cũng dặn phải chực chờ mở cửa cho ông ta vào mau mau khi có tai nạn xảy đến. Một hôm, ông ta vừa ra khỏi nhà thì ta đau bụng, cách một chập sau, ta sanh một đứa con gái. Ðồng thời chồng ta bị người đánh đuổi chạy về rất gấp. Ta mắc bận bịu vì đứa con nên không kịp mở cửa. Ông giận dữ tung cửa vào định giết ta? Ta chỉ đứa con mới nở hy vọng nó nghĩ tình máu thịt mà bớt cơn thịnh nộ đi chăng. Sau ta thất vọng: ông gắt gỏng, chỉ mặt đứa nhỏ bảo rằng: nó là nghịch tử báo đời. Rồi ông liền giết ngay; còn kề gươm vào cổ ta, bắt buộc ta phải ăn thịt đứa nhỏ ấy thì mới tha.

Cách ít hôm sau, tướng cướp này bị sa vào lưới pháp luật chịu án tử hình. Ta cũng bị chôn sống một phen nữa gần bên mé rừng. Ít phút sau có một con cọp đến moi mả tha xác người chết ăn thịt. Thân ta chôn ở dưới thây chồng ta khỏi bị cọp ăn. Ðược thoát nạn này, ta ngẫm nghĩ cuộc đời của ta vào sanh ra tử, khốn khổ vô cùng, nên ta không còn tiếc những ngày sống thừa nữa, ta mới quyết chí xuất gia đầu Phật.

Các cô thiếu nữ nghe nói hết sức kinh nghi mới bạch rằng: “Nay sư bà đã tu hành đắc đạo, sư bà có thể cho chúng con rõ nguyên nhân nào sư bà gặp lắm nỗi gian nan rùng rợn như thế không?”
Bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni thong thả đáp: “Các con ơi! Có chi lạ đâu, đó là quả báo như muôn ngàn quả báo khác của tiền nhân kiếp trước mà thôi. Ðây các con hãy nghe: Nguyên kiếp trước của ta, một thuở nọ, ta có chồng có con. Chồng ta có vợ lẻ cũng có con như ta. Vì ghen tương mà nhất là tham của, ta sợ gia tài của chồng ta phải chia cho con vợ bé thì mẹ con ta chẳng được phần nhiều, nên thừa dịp chồng ta với người thiếp đi vắng, ở nhà ta giết con chúng nó hết. Chuyện sát nhân đem đến cửa quan, tra khảo cách nào ta cũng chối mãi và ta lại thề dối rằng: “Nếu tôi có giết con chồng tôi, thì tôi sẽ bị khổ sở vô cùng, cả nhà tôi tan nát, các con tôi sẽ bị cọp tha, chết chìm, tôi sẽ bị chôn sống, chết ngộp v.v… Nếu tôi có ác tâm giết con vợ lẻ chồng tôi, thì ngày kia tôi sẽ bị người ta bắt buộc tôi phải ăn thịt người con tôi.”

Ðó các con có thấy không, một lời nói ra thì va lấy, một tiếng thề dối mà mắc ngay, một hành động ác thì bị quả báo dữ không sai. Biết được lý nhân quả như bóng theo hình, tợ vang theo tiếng, thì các con không còn thắc mắc gì với những tai nạn của các con ngày nay cũng như của bà ngày xưa. Cho hay nhân nào quả nấy, chớ khá than van; vì không bao giờ một việc xảy ra mà không có duyên cớ. Vậy khuyên các con phải tin nhân quả mà lo tu hành.


Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng tết đinh dậu có gì vui

Ngồi ngắm hoa mai nở vàng hoe, 
Xứ người chẳng có ai để khoe, 
Tết đến, Tết đi rồi cũng thế,
Nhìn quanh, ngó quẩn chẳng bạn bè.

Bạn bè dăm vị ở xa nhau,
Tin tức mỗi lần thấy buồn rầu, 
Người bệnh máu cao, người tê thấp, 
Người cao áp huyết, kẻ nhức đầu.

Nhức đầu vì nghĩ cái thân tôi, 
Lứa tuổi như nhau khổ hết rồi,
Bệnh hoạn theo thân già lụm khụm,.. 
Niệm Phật may ra bớt khổ đời...

Đã có thân người là có khổ, 
Phật dạy ngàn xưa đã rõ ràng, 
Tết đến, Tết đi nhớ lời Phật, 
Nhất tâm bất loạn đến Lạc bang.

Lạc bang là cảnh giới Tây phương, 
Đinh dậu năm nay nhớ tỏ tường, 
Tích đức tu thân cho chân chính, 
Cố tâm gìn giữ tránh tai ương.

Xem thêm thông tin khác:

Tết đinh dậu có gì vui

Phật pháp ứng dụng tết đinh dậu có gì vui

Ngồi ngắm hoa mai nở vàng hoe, 
Xứ người chẳng có ai để khoe, 
Tết đến, Tết đi rồi cũng thế,
Nhìn quanh, ngó quẩn chẳng bạn bè.

Bạn bè dăm vị ở xa nhau,
Tin tức mỗi lần thấy buồn rầu, 
Người bệnh máu cao, người tê thấp, 
Người cao áp huyết, kẻ nhức đầu.

Nhức đầu vì nghĩ cái thân tôi, 
Lứa tuổi như nhau khổ hết rồi,
Bệnh hoạn theo thân già lụm khụm,.. 
Niệm Phật may ra bớt khổ đời...

Đã có thân người là có khổ, 
Phật dạy ngàn xưa đã rõ ràng, 
Tết đến, Tết đi nhớ lời Phật, 
Nhất tâm bất loạn đến Lạc bang.

Lạc bang là cảnh giới Tây phương, 
Đinh dậu năm nay nhớ tỏ tường, 
Tích đức tu thân cho chân chính, 
Cố tâm gìn giữ tránh tai ương.

Xem thêm thông tin khác:

Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng người đi

Người đi bao nuối tiếc
Tam Bảo đứng sững sờ
Xuân xanh năm mươi mốt
Ra đi chẳng một lời.

Kiếp nhân sinh dài ngắn 
Ước mơ để lại ai?
Cỏ cây vương vấn quá 
Buốt giá cả bầu trời.

Sinh ra giữa kiếp trần
Hoằng dương nơi viễn xứ
Nương Okla hành đạo
Hầu lợi lạc quần sanh.

Sống thanh cao giản dị
Dâng ý đạo cho đời
Khơi đèn thiền chiếu sáng
Nối nghiệp chí Như Lai.

Vô thường bất chợt quá
Cung thương lời tiễn biệt
Người ẩn giữa mây trắng
Bút nghiên nữa còn đâu?

Tiếng chuông chiều ảm đạm,
Như khóc đời bể dâu,
Tiễn người về cõi Tịnh.
Tulsa lặng cúi đầu.

Xem thêm:

Người đi

Phật pháp ứng dụng người đi

Người đi bao nuối tiếc
Tam Bảo đứng sững sờ
Xuân xanh năm mươi mốt
Ra đi chẳng một lời.

Kiếp nhân sinh dài ngắn 
Ước mơ để lại ai?
Cỏ cây vương vấn quá 
Buốt giá cả bầu trời.

Sinh ra giữa kiếp trần
Hoằng dương nơi viễn xứ
Nương Okla hành đạo
Hầu lợi lạc quần sanh.

Sống thanh cao giản dị
Dâng ý đạo cho đời
Khơi đèn thiền chiếu sáng
Nối nghiệp chí Như Lai.

Vô thường bất chợt quá
Cung thương lời tiễn biệt
Người ẩn giữa mây trắng
Bút nghiên nữa còn đâu?

Tiếng chuông chiều ảm đạm,
Như khóc đời bể dâu,
Tiễn người về cõi Tịnh.
Tulsa lặng cúi đầu.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Tôi quen biết Thầy qua việc vận chuyển bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm từ Vũng Tàu sang, an vị tại Chùa Tam Bảo, thành phố Tulsa, Oklahoma vào tháng 6 năm 2010. Kể từ khi tượng được dựng lên, Thầy luôn mời tôi qua thăm Chùa Tam Bảo một chuyến. Chưa đủ nhân duyên, tôi khất mãi cho đến ngày… nghe tin Thầy viên tịch. 

Thật là quá ngỡ ngàng, không tin nổi. Đến nỗi, khi đọc tin nhắn của Ni sư Diệu Tánh nơi cellphone là “Thầy Đức Trí ở Okla-homa đã viên tịch,” tôi đã vội nhắn tin thẳng đến Thầy qua Viber để kiểm chứng: “Mới sáng hôm qua Thầy gửi cho bài Lá Thư Đầu Xuân mà, sao hôm nay lại nghe tin Thầy viên tịch! Gọi phone Thầy không bắt. Có gì Thầy nhắn lại ở đây nhé!” Tin nhắn của tôi gửi đi cũng không thấy trả lời. Tôi liền mở máy, check email thì quả nhiên, đã có thông báo của Thầy Nguyên Đạt về tin viên tịch của Thầy Đức Trí.

Tôi thật bàng hoàng, xúc động. Ôi, lại thêm một “người thân” trong chốn thiền ra đi. Giữa tôi và Thầy vẫn còn nhiều điều chưa có cơ hội nói ra hết, nhiều việc cần làm chưa lập thành dự án để thực hiện; nhưng tôi biết Thầy là một trong những vị Tăng trưởng thành sau năm 1975 có nhiều ưu tư, thao thức về tiền đồ của Phật Giáo Việt Nam, nhất là từ khi bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp tại hải ngoại.

Ngày 12.12.2016, Thầy gọi điện thoại nói chuyện với tôi, kể về sinh hoạt Chùa Tam Bảo với nhiều khởi sắc. Tôi nhắc Thầy viết bài cho báo Xuân Chánh Pháp, Thầy hơi ngập ngừng rồi nói, “dạo nầy cũng khá bận nên chẳng viết gì, để cố gắng thử.”

Không hứa chắc nhưng rồi qua ngày hôm sau đã thấy email và bài mới nhất của Thầy: “Phật Giáo Việt Nam Trước Nỗi Đau của Dân Tộc” (bài có đăng nơi số 62, Giai phẩm Xuân Đinh Dậu, tháng 01.2017). Tôi nói lời cảm ơn và cho Thầy biết là bài vừa kịp đăng báo Xuân trước khi lên khuôn. Một tuần sau đó, vào 9:43 phút sáng 21.12.2016, Thầy gửi tiếp một email, đính kèm bài nữa như lời hứa ở email tuần trước. 


Phật pháp ứng dụng lá thư đầu xuân

Bài nầy không kịp đăng báo Xuân, dù viết với chủ đề Xuân. Đây là bài cuối cùng của Thầy xuất hiện trên các websites Phật Giáo, và trên nguyệt san Chánh Pháp số nầy. Bài viết như lời trăn trở của một Tăng sĩ ly hương, luôn nhớ về quê nhà, đau lòng trước hiện trạng của đạo pháp và dân tộc. Tôi trân trọng từng lời từng chữ của Thầy, và xin gửi nơi đây cả 2 email cuối cùng Thầy đã viết cho tôi như một lời từ mà không biệt, lời của một người chuẩn bị đi xa nhưng biết là sẽ quay về. (Vĩnh Hảo)

Khi đông vừa tàn là xuân đến. Vẻ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đức và di huấn của tổ tiên chúng ta để lại. Những người con Việt dù ở đâu cũng không quên văn hóa mừng xuân, gửi cho nhau câu chuyện tâm tình về quê hương xứ sở. Xuân về là dịp mọi người thể hiện sâu sắc đạo lý tri ân và báo ân cha mẹ, tổ tiên, bạn bè, người thân và xã hội. Đó là nét đẹp muôn thuở của ngày xuân trong tâm hồn người dân Việt Nam.

Tinh thần báo ân với người thân trong gia tộc và mọi người vào dịp tết đó là nếp sống lành mạnh, nhân bản, mang đậm tình người. Trước lễ đón giao thừa đầu năm là lễ cúng tất niên. Lễ tất niên có mâm cơm ngon, hương hoa và mâm ngũ quả cúng tổ tiên, mời các ngài về ăn tết cùng con cháu. Đó cũng là bữa cơm đoàn tụ gia đình trong ngày cuối năm. 

Đêm đón giao thừa, nhiều nhà còn sắm sửa lễ vật thanh khiết để cúng Phật, cúng trời và các đấng thánh thần để cầu nguyện cho quốc thái dân an. Có nhiều nơi còn đốt pháo trong lễ cúng giao thừa. Mọi người thường mang áo quần mới, y phục thường trang trọng khác thường để vui xuân. 

Hạnh phúc nhất sau lễ đón giao thừa, bắt đầu năm mới, con cháu đi chúc tết mừng tuổi ông bà cha mẹ. Người lớn cũng gửi những lời cầu chúc cho con cháu lớn khôn, thành đạt. Suốt mấy ngày tết, mọi người còn có dịp xuất hành và thăm viếng bà con họ hàng, chia sẻ ước nguyện đầu năm.

Phong tục tu phước đầu năm còn lưu dấu trong văn hóa lì xì tiền tài đầu năm cho người khác. Người Việt Nam bản tính rất nhân hậu và giàu lòng vị tha, thấm nhuần đạo đức nhân sinh. Tổ tiên chúng ta rất tôn trọng đạo lý nhân quả trong đời sống, luôn khuyên dạy con cháu ăn ở hiền lành, kính trên nhường dưới, thương người nghèo khó. 

Triết lý sống đơn giản nhưng ấn tượng sâu sắc trong trái tim người dân Việt: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu,” “Ở hiền thì gặp lành,” “Thương người như thể thương thân,” “Lá lành đùm lá rách.” Ca dao cũng có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… 

Tình thương đó không hạn chế trong gia đình người thân mà phổ cập đến dân tộc và đồng loại. Tin sâu đạo lý nhân quả làm chủ đạo mọi giá trị đạo đức xã hội. Đầu năm tu phước, làm lành là mong cả năm đều làm được nhiều điều tốt đẹp. Sống yêu thương, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn là nuôi lớn tình thương cá nhân và đồng loại. Đó là sức mạnh tổng hợp giúp dân tộc chúng ta dìu dắt nhau vượt mọi biến cố lâm nguy trong mọi hoàn cảnh.

Xã hội ngày nay, mức độ chênh lệch giữa đời sống người giàu và người nghèo với khoảng cách quá lớn! Có người có quyền chức, địa vị xã hội thì sống xa hoa, người dân lao động thì cùng khổ bế tắc. Đó là cảnh: “Người ăn không hết, kẻ làm không ra.” Biết bao nhiêu người dân lao động chịu cảnh đói nghèo suốt năm tháng. Xuân về, nhà ai giàu sang, lầu cao cửa rộng, hoa pháo rầm rang, quan qua, đại gia lại, tiệc tùng say sưa. 

Xuân về, có nhiều người dân đang trong cảnh: “tai trời, ách nước, họa người.” Xuân về, bao trẻ nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, chịu thiệt thòi vì gia đình lâm cảnh cùng cực, cha mẹ nhìn con với giọt nước mắt nghẹn ngào và đau xót. Xuân về, bao cụ già ôm chiếu rách nằm ôm phận đời bất hạnh.

Việt nam chúng ta, một hơn ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, trăm năm bị giặc tây xâm chiếm, đất nước chiến tranh, Nam Bắc Trung như con một nhà đã từng trong cảnh nồi da xáo thịt, dừng chiến tranh thì sa vào nạn chủ nghĩa độc quyền. Tất cả toàn dân Việt là nạn nhân của lịch sử, nạn nhân của chiến tranh và sự chia rẽ, hãy nhận thức để xóa bỏ hận thù, cùng hướng về một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đất nước Việt Nam trên bốn ngàn năm văn hiến, bao cảnh đau thương mất mát đổ dồn trên đôi vai dân tộc. 

Chính những người dân cùng khổ hôm nay, tổ tiên họ đã bao đời hy sinh máu thịt, gìn giữ đất nước, gìn giữ lãnh thổ, gìn giữ bản sắc văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Cho nên, đất nước này là đất nước của dân, người dân phải có nhân quyền, cần có một chế độ với pháp luật nhân bản. Chúng ta cần có trách nhiệm chung của người dân việt đang khổ đau.

Đón mùa xuân mới, chúng ta có cơ hội ngồi lại bên nhau, hâm nóng lại tình thương đồng bào, thể hiện lòng tri ân tổ tiên. Hãy bỏ đi mọi thành kiến và mọi ý thức hệ vay mượn không phù hợp với xu thế tự do, hạnh phúc dân tộc. Xuân về, mọi người hãy sống bên nhau trong tình ruột thịt, suy tư nỗi đau của dân của nước. 

Chúng ta còn có cơ hội lựa chọn sáng suốt, đừng để dân tộc chúng ta tiếp tục lê thê trong kiếp sống lầm than. Những người dân Việt thân thương đang có trách nhiệm với dân tộc hôm nay, hãy trả về cho dân Việt những gì người dân đã mất, hãy chung vai sát cánh với dân để thiết lập một xã hội tốt đẹp, để cùng dân đủ sức gìn giữ non sông Việt Nam tươi đẹp muôn đời.

Xem thêm:

Lá thư đầu xuân

Tôi quen biết Thầy qua việc vận chuyển bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm từ Vũng Tàu sang, an vị tại Chùa Tam Bảo, thành phố Tulsa, Oklahoma vào tháng 6 năm 2010. Kể từ khi tượng được dựng lên, Thầy luôn mời tôi qua thăm Chùa Tam Bảo một chuyến. Chưa đủ nhân duyên, tôi khất mãi cho đến ngày… nghe tin Thầy viên tịch. 

Thật là quá ngỡ ngàng, không tin nổi. Đến nỗi, khi đọc tin nhắn của Ni sư Diệu Tánh nơi cellphone là “Thầy Đức Trí ở Okla-homa đã viên tịch,” tôi đã vội nhắn tin thẳng đến Thầy qua Viber để kiểm chứng: “Mới sáng hôm qua Thầy gửi cho bài Lá Thư Đầu Xuân mà, sao hôm nay lại nghe tin Thầy viên tịch! Gọi phone Thầy không bắt. Có gì Thầy nhắn lại ở đây nhé!” Tin nhắn của tôi gửi đi cũng không thấy trả lời. Tôi liền mở máy, check email thì quả nhiên, đã có thông báo của Thầy Nguyên Đạt về tin viên tịch của Thầy Đức Trí.

Tôi thật bàng hoàng, xúc động. Ôi, lại thêm một “người thân” trong chốn thiền ra đi. Giữa tôi và Thầy vẫn còn nhiều điều chưa có cơ hội nói ra hết, nhiều việc cần làm chưa lập thành dự án để thực hiện; nhưng tôi biết Thầy là một trong những vị Tăng trưởng thành sau năm 1975 có nhiều ưu tư, thao thức về tiền đồ của Phật Giáo Việt Nam, nhất là từ khi bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp tại hải ngoại.

Ngày 12.12.2016, Thầy gọi điện thoại nói chuyện với tôi, kể về sinh hoạt Chùa Tam Bảo với nhiều khởi sắc. Tôi nhắc Thầy viết bài cho báo Xuân Chánh Pháp, Thầy hơi ngập ngừng rồi nói, “dạo nầy cũng khá bận nên chẳng viết gì, để cố gắng thử.”

Không hứa chắc nhưng rồi qua ngày hôm sau đã thấy email và bài mới nhất của Thầy: “Phật Giáo Việt Nam Trước Nỗi Đau của Dân Tộc” (bài có đăng nơi số 62, Giai phẩm Xuân Đinh Dậu, tháng 01.2017). Tôi nói lời cảm ơn và cho Thầy biết là bài vừa kịp đăng báo Xuân trước khi lên khuôn. Một tuần sau đó, vào 9:43 phút sáng 21.12.2016, Thầy gửi tiếp một email, đính kèm bài nữa như lời hứa ở email tuần trước. 


Phật pháp ứng dụng lá thư đầu xuân

Bài nầy không kịp đăng báo Xuân, dù viết với chủ đề Xuân. Đây là bài cuối cùng của Thầy xuất hiện trên các websites Phật Giáo, và trên nguyệt san Chánh Pháp số nầy. Bài viết như lời trăn trở của một Tăng sĩ ly hương, luôn nhớ về quê nhà, đau lòng trước hiện trạng của đạo pháp và dân tộc. Tôi trân trọng từng lời từng chữ của Thầy, và xin gửi nơi đây cả 2 email cuối cùng Thầy đã viết cho tôi như một lời từ mà không biệt, lời của một người chuẩn bị đi xa nhưng biết là sẽ quay về. (Vĩnh Hảo)

Khi đông vừa tàn là xuân đến. Vẻ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đức và di huấn của tổ tiên chúng ta để lại. Những người con Việt dù ở đâu cũng không quên văn hóa mừng xuân, gửi cho nhau câu chuyện tâm tình về quê hương xứ sở. Xuân về là dịp mọi người thể hiện sâu sắc đạo lý tri ân và báo ân cha mẹ, tổ tiên, bạn bè, người thân và xã hội. Đó là nét đẹp muôn thuở của ngày xuân trong tâm hồn người dân Việt Nam.

Tinh thần báo ân với người thân trong gia tộc và mọi người vào dịp tết đó là nếp sống lành mạnh, nhân bản, mang đậm tình người. Trước lễ đón giao thừa đầu năm là lễ cúng tất niên. Lễ tất niên có mâm cơm ngon, hương hoa và mâm ngũ quả cúng tổ tiên, mời các ngài về ăn tết cùng con cháu. Đó cũng là bữa cơm đoàn tụ gia đình trong ngày cuối năm. 

Đêm đón giao thừa, nhiều nhà còn sắm sửa lễ vật thanh khiết để cúng Phật, cúng trời và các đấng thánh thần để cầu nguyện cho quốc thái dân an. Có nhiều nơi còn đốt pháo trong lễ cúng giao thừa. Mọi người thường mang áo quần mới, y phục thường trang trọng khác thường để vui xuân. 

Hạnh phúc nhất sau lễ đón giao thừa, bắt đầu năm mới, con cháu đi chúc tết mừng tuổi ông bà cha mẹ. Người lớn cũng gửi những lời cầu chúc cho con cháu lớn khôn, thành đạt. Suốt mấy ngày tết, mọi người còn có dịp xuất hành và thăm viếng bà con họ hàng, chia sẻ ước nguyện đầu năm.

Phong tục tu phước đầu năm còn lưu dấu trong văn hóa lì xì tiền tài đầu năm cho người khác. Người Việt Nam bản tính rất nhân hậu và giàu lòng vị tha, thấm nhuần đạo đức nhân sinh. Tổ tiên chúng ta rất tôn trọng đạo lý nhân quả trong đời sống, luôn khuyên dạy con cháu ăn ở hiền lành, kính trên nhường dưới, thương người nghèo khó. 

Triết lý sống đơn giản nhưng ấn tượng sâu sắc trong trái tim người dân Việt: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu,” “Ở hiền thì gặp lành,” “Thương người như thể thương thân,” “Lá lành đùm lá rách.” Ca dao cũng có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… 

Tình thương đó không hạn chế trong gia đình người thân mà phổ cập đến dân tộc và đồng loại. Tin sâu đạo lý nhân quả làm chủ đạo mọi giá trị đạo đức xã hội. Đầu năm tu phước, làm lành là mong cả năm đều làm được nhiều điều tốt đẹp. Sống yêu thương, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn là nuôi lớn tình thương cá nhân và đồng loại. Đó là sức mạnh tổng hợp giúp dân tộc chúng ta dìu dắt nhau vượt mọi biến cố lâm nguy trong mọi hoàn cảnh.

Xã hội ngày nay, mức độ chênh lệch giữa đời sống người giàu và người nghèo với khoảng cách quá lớn! Có người có quyền chức, địa vị xã hội thì sống xa hoa, người dân lao động thì cùng khổ bế tắc. Đó là cảnh: “Người ăn không hết, kẻ làm không ra.” Biết bao nhiêu người dân lao động chịu cảnh đói nghèo suốt năm tháng. Xuân về, nhà ai giàu sang, lầu cao cửa rộng, hoa pháo rầm rang, quan qua, đại gia lại, tiệc tùng say sưa. 

Xuân về, có nhiều người dân đang trong cảnh: “tai trời, ách nước, họa người.” Xuân về, bao trẻ nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, chịu thiệt thòi vì gia đình lâm cảnh cùng cực, cha mẹ nhìn con với giọt nước mắt nghẹn ngào và đau xót. Xuân về, bao cụ già ôm chiếu rách nằm ôm phận đời bất hạnh.

Việt nam chúng ta, một hơn ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, trăm năm bị giặc tây xâm chiếm, đất nước chiến tranh, Nam Bắc Trung như con một nhà đã từng trong cảnh nồi da xáo thịt, dừng chiến tranh thì sa vào nạn chủ nghĩa độc quyền. Tất cả toàn dân Việt là nạn nhân của lịch sử, nạn nhân của chiến tranh và sự chia rẽ, hãy nhận thức để xóa bỏ hận thù, cùng hướng về một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đất nước Việt Nam trên bốn ngàn năm văn hiến, bao cảnh đau thương mất mát đổ dồn trên đôi vai dân tộc. 

Chính những người dân cùng khổ hôm nay, tổ tiên họ đã bao đời hy sinh máu thịt, gìn giữ đất nước, gìn giữ lãnh thổ, gìn giữ bản sắc văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Cho nên, đất nước này là đất nước của dân, người dân phải có nhân quyền, cần có một chế độ với pháp luật nhân bản. Chúng ta cần có trách nhiệm chung của người dân việt đang khổ đau.

Đón mùa xuân mới, chúng ta có cơ hội ngồi lại bên nhau, hâm nóng lại tình thương đồng bào, thể hiện lòng tri ân tổ tiên. Hãy bỏ đi mọi thành kiến và mọi ý thức hệ vay mượn không phù hợp với xu thế tự do, hạnh phúc dân tộc. Xuân về, mọi người hãy sống bên nhau trong tình ruột thịt, suy tư nỗi đau của dân của nước. 

Chúng ta còn có cơ hội lựa chọn sáng suốt, đừng để dân tộc chúng ta tiếp tục lê thê trong kiếp sống lầm than. Những người dân Việt thân thương đang có trách nhiệm với dân tộc hôm nay, hãy trả về cho dân Việt những gì người dân đã mất, hãy chung vai sát cánh với dân để thiết lập một xã hội tốt đẹp, để cùng dân đủ sức gìn giữ non sông Việt Nam tươi đẹp muôn đời.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng nụ lửa

Nắng đổ trên cành nghiêng ngửa,
Gió ca điệp khúc hiền hòa
Hiện giữa trời xanh nụ lửa,
Hè về đỏ rực muôn hoa.

Nhớ ai môi rụng chật đường?
Bước trên ngàn môi nhạt thắm,
Bàn chân hình như đẹp lắm
Mắt bồ câu rộn tình thương.

Trên cành lửa bừng sức sống,
Vài em không hiểu sao cười?
Ngày nào mộng đời thôi mộng,
Biết còn ép cánh hoa tươi?

Nghiêng nghiêng nón lá qua cầu,
Gió lùa đôi chân khép nép,
Chừ hoa nở đầy xứ đẹp,
Sắc hương còn được bao lâu?

Xem thêm:

Nụ Lửa

Phật pháp ứng dụng nụ lửa

Nắng đổ trên cành nghiêng ngửa,
Gió ca điệp khúc hiền hòa
Hiện giữa trời xanh nụ lửa,
Hè về đỏ rực muôn hoa.

Nhớ ai môi rụng chật đường?
Bước trên ngàn môi nhạt thắm,
Bàn chân hình như đẹp lắm
Mắt bồ câu rộn tình thương.

Trên cành lửa bừng sức sống,
Vài em không hiểu sao cười?
Ngày nào mộng đời thôi mộng,
Biết còn ép cánh hoa tươi?

Nghiêng nghiêng nón lá qua cầu,
Gió lùa đôi chân khép nép,
Chừ hoa nở đầy xứ đẹp,
Sắc hương còn được bao lâu?

Xem thêm:
Đọc thêm..